- Trang chủ
- Thông tin
- Thông tin y học tiếng Việt
- Diễn biến lâm sàng bệnh động mạch vành
Diễn biến lâm sàng bệnh động mạch vành
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Bệnh động mạch vành biểu hiện bởi một trong các hình thái: Cơn đau thắt ngực ổn định, Cơn đau thắt ngực không ổn định và nhồi máu cơ tim.
Đau thắt ngực ổn định
Đau thắt ngực thường do bệnh xơ vữa các động mạch vành gây ra. Co thắt động mạch vành cũng có thể xảy ra ở vị trí tổn thương hoặc hiếm hơn, ở những động mạch vành hoàn toàn bình thường. Các nguyên nhân ít gặp khác của tắc động mạch vành như dị tật bẩm sinh, tắc mạch, viêm động mạch hoặc phình tách cũng có thể gây ra thiếu máu hoặc nhồi máu. Đau ngực cũng có thể xảy ra khi không có hẹp tắc động mạch vành mà do phì đại cơ tim nặng nề, hẹp van động mạch chủ nặng, hoặc khi đáp ứng nhu cầu chuyển hoá tăng như trong cường giáp, thiếu máu nặng hoặc nhịp tim nhanh. Hiếm hơn đau thắt ngực xảy ra ở những người chụp động mạch vành hoàn toàn bình thường và không tìm thấy nguyên nhân nào khác, có lẽ do bất thường vi mạch gây ra.
Hoàn cảnh khởi phát và làm giảm nhẹ đau thắt ngực
Đau thắt ngực hầu như đều xảy ra trong khi hoạt động và giảm đi khi nghỉ ngơi. Số lượng hoạt động đòi hỏi để sinh cơn đau thắt ngực, có thể là tương đối hằng định trong những hoàn cảnh thể lực hoặc cảm xúc có thể so sánh được hoặc có thể thay đổi từ ngày này qua ngày khác. Đau thắt ngực có thể xảy ra sau ăn no, trong lúc bị kích động hoặc khi tiếp xúc với lạnh. Xúc động mạnh có thể gây ra cơn đau trong khi không gắng sức. Thêm vào đó đau có thể xảy ra khi giao hợp, lúc nghỉ ngơi do co thắt mạch vành.
Đặc tính của đau thắt ngực
Bệnh nhân có cảm giác thắt chặt lại, ép lại, nóng bỏng, nghẹt thở, đau nhức như nổ tung lồng ngực, ngột ngạt, hoặc bứt rứt khó chịu, đau thắt ngực không bao giờ khu trú một điểm.
Vị trí và hướng lan của đau
Sự phân bố đau có thể thay đổi ở các bệnh nhân khác nhau nhưng thường giống nhau ở cùng một bệnh nhân, trừ khi hội chứng động mạch vành cấp xẩy ra đột ngột. Có tới 90% các trường hợp thấy đau ở phía sau hoặc hơi lệch sang trái xương ức. Khi nó khởi phát bên trái hoặc bên phải, thì nó sẽ chuyển dần về giữa xương ức. Mặc dù đau thắt ngực có thể di chuyển tới bất kỳ vùng nào từ đốt sống cổ 8 tới bả vai trái và cánh tay mặt trong rồi tới khuỷu, cẳng tay, cổ tay hoặc ngón 4 và 5, ít khi đau tới vùng bả vai phải hoặc vùng khác nhưng nếu có thì nó cũng có những đặc điểm tương tự. Nếu như bệnh nhân thấy đau ở vị trí là một điểm ở vùng mỏm tim thì đó không thể là đau thắt ngực.
Thời gian cơn đau kéo dài
Cơn đau thắt ngực thường ngắn và có thể hết hoàn toàn mà không để lại cảm giác khó chịu nào. Nếu gắng sức làm khởi phát cơn đau và bệnh nhân phải nhanh chóng dừng lại thì cơn đau thường kéo dài dưới 3 phút. Những cơn đau xảy ra sau bữa ăn no hoặc do tức giận thường kéo dài hơn. Ít khi cơn đau kéo dài trên 30 phút và nếu có thì nó thường gợi ý sự phát triển của đau thắt ngực không ổn định, nhồi máu cơ tim hoặc một chẩn đoán khác.
Nitroglycerin trong chẩn đoán lâm sàng
Chẩn đoán được ủng hộ nếu dùng Nitroglycerin làm cơn đau ngắn đi hoặc dự phòng được đau thắt ngực.
Khám thực thể
Khám trong cơn đau thường thấy tăng huyết áp tâm thu và tâm trương, mặc dù hạ huyết áp cũng có thể xảy ra. Đôi khi có thể thấy tiếng thổi tâm thu ở mỏm do hở van hai lá tạm thời vì rối loạn chức năng cơ nhú trong cơn đau. Khám có thể thấy rối loạn nhịp, mà chúng có thể là yếu tố khởi phát hoặc hậu quả của thiếu máu. Điều rất quan trọng là phát hiện có thể có của các bệnh có thể góp phần vào hoặc kèm theo bệnh tim do xơ vữa mạch- đái tháo đường, tăng huyết áp, cường giáp, suy giáp hoặc bệnh mạch máu ngoại biên. Hẹp van ĐM chủ, bệnh cơ tim phì đại và sa van hai lá có thể gây đau thắt ngực.
Đau thắt ngực ổn định thường do hẹp cố định động mạch vành, huyết khối hoặc chảy máu tại vị trí tổn thương gây ra, nhưng một số trường hợp thiếu máu cục bộ lại do co thắt động mạch vành.
Co thắt động mạch vành lớn làm giảm dòng máu của động mạch vành, có thể xảy ra tự phát hoặc tiếp xúc với lạnh, Stress hoặc thuốc gây co thắt mạch. Thậm chí nhồi máu cơ tim có thể xảy ra do co thắt mạch ở người không có bệnh động mạch vành, mặc dù hầu hết các trường hợp co thắt động mạch vành xảy ra ở những người có hẹp động mạch vành.
Đau thắt ngực kiểu Prinzmetal là hội chứng xảy ra thường không có yếu tố thúc đẩy, và thường kết hợp với điện tâm đồ có ST chênh lên hơn là chênh xuống. Cơn đau ngực xảy ra hầu hết do tổn thương động mạch vành phải và hay có rối loạn nhịp hoặc rối loạn dẫn truyền đi cùng, có thể không có hẹp động mạch vành đi cùng.
Đau thắt ngực không ổn định
Thuật ngữ đau thắt ngực không ổn định để biểu thị kiểu đau tăng nhanh và mạnh lên, ở những trường hợp mà trước đó có đau thắt ngực ổn định, nhưng đau xảy ra khi gắng sức nhẹ hoặc khi nghỉ ngơi, kéo dài hơn và ít đáp ứng với điều trị bằng thuốc.
Chụp động mạch vành đã chứng tỏ rằng tỷ lệ cao bệnh nhân có hẹp động mạch vành phức tạp đặc trưng bằng vỡ hoặc loét mảng xơ vữa, chảy máu hoặc huyết khối. Tình huống không ổn định này có thể tiến triển tới tắc hoàn toàn và nhồi máu, hoặc có thể khỏi với sự tái tạo nội mạc và trở về trạng thái đau thắt ngực ổn định.
Hầu hết các bệnh nhân bị đau thắt ngực không ổn định sẽ có những thay đổi điện tâm đồ trong cơn đau, với sự chênh xuống của đoạn ST hoặc T dẹt hoặc đảo ngược, đôi khi thấy ST chênh lên và là dấu hiệu xấu. Bệnh nhân có thể có rối loạn chức năng thất trái trong hoặc sau cơn đau.
Nhồi máu cơ tim
Nhồi máu cơ tim do thiếu máu cơ tim kéo dài gây ra, hầu hết thúc đẩy khởi phát bởi cục máu đông làm bít tắc mạch vành ở vị trí hẹp do xơ vữa có từ trước. Hiếm gặp nhồi máu cơ tim do co thắt động mạch vành kéo dài, lượng máu đến cơ tim không đủ do hạ huyết áp hoặc nhu cầu chuyển hoá cơ tim quá cao gây ra. Rất hiếm gặp nhồi máu cơ tim do cục máu đông từ nơi khác đến, viêm động mạch, bệnh gốc động mạch chủ.
Vị trí và mức độ lan rộng của ổ nhồi máu tuỳ thuộc vào sự phân bố về mặt giải phẫu của động mạch bị tắc, sự hiện có của tổn thương và sự thích hợp của tuần hoàn bàng hệ. Tắc nhánh động mạch liên thất trước gây nhồi máu vùng trước thất trái và vách liên thất. Tắc nhánh động mạch mũ gây nhồi máu trước bên hoặc sau bên. Tắc động mạch vành phải gây nhồi máu vùng sau dưới thất trái và có thể cả vùng cơ tim thất phải và vách liên thất.
Tuy nhiên có sự khác nhau rất lớn về giải phẫu mạch vành và do các tổn thương kết hợp, cùng các vòng nối tuần hoàn bàng hệ có thể làm nhầm lẫn bệnh cảnh, dự đoán giải phẫu mạch vành từ vị trí nhồi máu có thể không chính xác.
Nhồi máu cơ tim xuyên thành nếu có sự chênh lên của đoạn ST và sóng Q có mặt, hoặc nhồi máu không xuyên thành hoặc dưới nội mạc nếu có đau, men tim tăng và những thay đổi của đoạn ST và T nhưng không có sóng Q mới. Tuy nhiên đôi khi thấy sự lan rộng nhồi máu xuyên thành mà vẫn không có sóng Q. Như vậy phân loại tốt hơn là nhồi máu có sóng Q và không có sóng Q. Nhồi máu không có sóng Q thường do tắc không hoàn toàn hoặc tiêu tự phát cục huyết khối.
Kích thước và vị trí ổ nhồi máu quyết định bệnh cảnh lâm sàng cấp, các biến chứng sớm và tiên lượng lâu dài.
Đau tiền triệu
Một phần ba số bệnh nhân có tiền sử xen kẽ các hình thái đau thắt ngực, đợt khởi phát mới của thắt ngực có thể điển hình hoặc không điển hình, hoặc có cảm giác khó chịu bất thường ở ngực.
Đau của nhồi máu
Hầu hết trường hợp nhồi máu cơ tim xảy ra trong lúc nghỉ ngơi, không giống các cơn đau thắt ngực. Đau cũng tương tự như đau thắt ngực về vị trí và hướng lan nhưng nặng hơn và tăng lên nhanh chóng hoặc dần đạt tới tối đa trong một vài phút hoặc lâu hơn. Nitroglycerin ít tác dụng, ngay cả thuốc giảm đau có thuốc phiện cũng không làm hết đau.
Các triệu chứng kết hợp
Bệnh nhân có thể vã mồ hôi lạnh, cảm giác yếu và sợ hãi, không thể nằm yên tĩnh, đau đầu nhẹ, nôn, buồn nôn hoặc chướng bụng có thể xuất hiện đơn thuần hoặc kết hợp với nhau…
Nhồi máu không đau
một số ít các trường hợp không đau hoặc đau rất nhẹ và thường bị che khuất bởi các biến chứng tức thì.
Chết đột ngột và các rối loạn nhịp sớm
Vào khoảng 20% các bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim cấp bị chết trước khi đến viện. Chết đột ngột thường xảy ra trong những giờ đầu và chủ yếu do rung thất.
Toàn thân
Bệnh nhân thường lo lắng vã nhiều mồ hôi. Tần số tim có thể thay đổi từ chậm rõ rệt đến nhịp nhanh, cung lượng tim thấp. Huyết áp có thể cao. Khó thở thường chứng tỏ suy tim.
Phổi
Hai phế trường sạch là tiên lượng tốt, nhưng thường thấy ran ở hai đáy phổi và không phải bao giờ cũng do suy tim, ran rộng hơn hoặc tiếng ngáy lan toả có thể chứng tỏ phù phổi cấp.
Tim
Khám tim có thể thấy bình thường, tĩnh mạch cổ nổi có thể chỉ ra rằng có nhồi máu thất phải hoặc tăng áp lực đổ đầy thất trái. Tiếng tim mờ, nhịp ngựa phi chứng tỏ có rối loạn chức năng thất trái. Tiếng thổi tâm thu hở van hai lá ít gặp và nếu có thường do rối loạn chức năng cơ nhú, tiếng cọ màng tim ít gặp trong 24h đầu.
Các chi
Thường không có phù, tím và lạnh đầu chi chứng tỏ cung lượng tim thấp.
Bài viết cùng chuyên mục
Quy trình kỹ thuật khí dung thuốc
Khí dung trị liệu có thể được cụng cấp bằng bình phun thể tích nhỏ (SVN Small-Volume-Nebulizer) hoặc ống hít có phân liều (MDI Metered-Dose-Inhaler).
Chảy máu liên quan đến điều trị tiêu huyết khối
Thời gian chảy máu như một chỉ dẫn chức năng tiểu cầu, có thể là một hướng dẫn hữu ích đối với điều trị bồi phụ tiểu cầu, nếu bệnh nhân có thời gian chảy máu kéo dài mặc dù đã bồi phụ các yếu tố đông máu.
Ảnh hưởng sinh lý của thông khí nhân tạo
Trong điều kiện tự thở, AL trong lồng ngực luôn âm. AL dao động từ -5 cmH2O (thở ra) đến -8 cmH2O (hít vào). AL phế nang dao động từ +1 cmH2O (thở ra) đến -1 cmH2O (hít vào).
Các phản ứng truyền máu
Các triệu chứng sớm bao gồm bắt đầu đột ngột tình trạng lo lắng, đỏ bừng, nhịp nhanh và tụt huyết áp. Đau ngực, đau bụng, sốt và khó thở là các biểu hiện thường gặp.
Theo dõi bệnh nhân thở máy
Theo dõi bệnh nhân là quan trọng nhất vì tất cả mọi cố gắng của bác sỹ kể cả cho bệnh nhân thở máy cũng chỉ nhằm tới mục tiêu là ổn định và dần dần cải thiện tình trạng bệnh nhân.
Các biến chứng của thở máy
Triệu chứng báo hiệu thường là tình trạng chống máy, khi đó khám phổi phát hiện được tràn khí màng phổi, hoặc dấu hiệu nghi ngờ tràn khí trung thất.
Thông khí nhân tạo điều khiển ngắt quãng đồng thì (SIMV)
Trước đây là một phương thức thở được sử dụng nhiều, kể cả trong cai thở máy. Tuy nhiên kết quả của các nghiên cứu gần đây không ủng hộ việc sử dụng phương thức này trong cai thở máy.
Các phác đồ kiểm soát đường huyết trong hồi sức cấp cứu
Tiêm tĩnh mạch insulin loại tác dụng nhanh khi kết quả xét nghiệm đường huyết mao mạch lớn hơn 11 mmol trên lít, liều bắt đầu là 5 hoặc 10 đơn vị.
Chăm sóc bệnh nhân nặng
Rối loạn nặng một hoặc nhiều các chức năng sống: hô hấp, tuần hoàn, não, thận, điện giải, thăng bằng kiềm toan
Sốc phản vệ (dị ứng)
Sốc phản vệ là tình trạng lâm sàng xuất hiện đột ngột do hậu quả của sự kết hợp kháng nguyên với các thành phần miễn dịch IgE trên bề mặt tế bào ưa kiềm và các đại thực bào gây giải phóng các chất như histamin.
Tràn khí màng phổi toàn bộ
Tràn khí màng phổ toàn bộ là một bệnh lý cấp tính của khoang màng phổi đặc trưng bởi xuất iện khí trong từng khoang màng phổi ở các mức độ khác nhau
Rối loạn kinh nguyệt
Là triệu chứng nhưng đôi khi cần phải điều trị mặc dù chưa rõ nguyên nhân bệnh nhưng gây băng kinh, băng huyết, rong kinh kéo dài...
Nét cơ bản về giải phẫu sinh lý ứng dụng của bộ máy hô hấp
Hen phế quản, COPD là những bệnh lý hay được thông khí nhân tạo, đặc điểm là hẹp đường thở bơm khí khó khi thở vào, khí ra chậm khi thở ra nguy cơ ứ khí trong phổi (auto PEEP).
Thông khí nhân tạo trong các bệnh phổi tắc nghẽn
Cơn hen phế quản cấp và đợt cấp của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là các tình trạng bệnh lý hay gặp trong lâm sàng, và trong trường hợp nặng có thể phải chỉ định thông khí nhân tạo.
Mở khí quản
Phầu thuật viên dùng tay trái cố định khí quản ở giữa, tay phải cầm dao mổ rạch da theo đường dọc giữa cổ từ điểm cách hõm ức khoảng 1cm lên trêm tới sát sụn nhẫn, dài khoảng 2,5 đến 3cm.
Sốc do tim
Chênh lệch oxy giữa máu mao mạch và máu tĩnh mạch cao do rối loạn trong sốc tim là do tổn thương chức năng tim, không phải do rối loạn ở ngoại vi.
Tư vấn sức khỏe tim mạch miễn phí tại bệnh viện Hồng Ngọc
Mỗi năm, các bệnh lý về tim mạch đã cướp đi tính mạng của hơn 17 triệu người, không phân biệt tuổi tác, giới tính và tầng lớp xã hội, Những hậu quả nặng nề
Tính chất, phân tích một số nhịp sóng điện não cơ bản
Sự tăng cường nhịp beta - sự tăng hưng phấn của vỏ não. Chiếm ưu thế nếu căng thẳng TK, hưng phấn hoặc lo âu. Giảm đi nếu chuyển động tự do các chi, kích thích xúc giác.
Thực hành dinh dưỡng tốt trong nâng cao chất lượng điều trị
Với mong muốn cập nhật những chứng cứ mới nhất cũng như chia sẻ nhiều kinh nghiệm chuyên môn trong thực hành dinh dưỡng lâm sàng từ các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực
Thấp tim
Thấp tim là một bệnh viêm dị ứng xảy ra sau nhiễm liên cầu khuẩn tan huyết β nhóm A gây nên, bệnh tổn thương ở hệ thống tổ chức liên kết theo cơ chế miễn dịch dị ứng
Soi phế quản ống mềm
Dùng ống soi đưa vào đường hô hấp, hệ thống khí phế quản giúp quan sát tổn thương và can thiệp điều trị.
Mục tiêu kiểm soát các chỉ số ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2
Trong khuyến cáo thực hành lâm sàng đối với bệnh nhân đái tháo đường có bệnh thận mạn của KDOQI cập nhật năm 2012 có nêu: Mức kiểm soát HbA1c tối ưu nên duy trì vào khoảng 7,0%
Hướng dẫn chăm sóc bệnh nhân thở máy
Theo dõi tình trạng lâm sàng và SpO2 trong khi hút: nếu Bn xuất hiện tím hoặc SpO2 tụt thấp <85-90% phải tạm dừng hút: lắp lại máy thở với FiO2 100% hoặc bóp bóng oxy 100%.
Rau bong non
Tại cơ sở và địa phương: Tuyên truyền, giáo dục để mọi người, đặc biệt là chị em biết cách tự phát hiện thấy những dấu hiệu bất thường để tự giác đi khám lý thai tại các và quản cơ sở y tế.
Chăm sóc bệnh nhân tai biến mạch não
Tai biến mạch não, là dấu hiệu phát triển nhanh chóng trên lâm sàng, của một rối loạn khu trú chức năng của não kéo dài trên 24giờ