- Trang chủ
- Thông tin
- Thông tin y học tiếng Việt
- Các bệnh da tăng sắc tố (hyperpigmentation)
Các bệnh da tăng sắc tố (hyperpigmentation)
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Các bệnh có biểu hiện tăng sắc tố ở da bao gồm một số bệnh có căn nguyên di truyền hay bẩm sinh, do rối loạn chuyển hoá, nguyên nhân do nội tiết, do hoá chất hoặc thuốc, do dinh dưỡng, yếu tố vật lý, sau nhiễm khuẩn hay viêm, các khối u sắc tố và các nguyên nhân khác.
Di truyền hoặc bẩm sinh
Hội chứng LEOPARD.
L (Lentigonosis): Nốt ruồi.
E (Electrocardiograph abnormalities): Bất thường về điện tim.
O (Ocularhypesterolisme): Hai mắt cách xa nhau.
P (Pulmonicstenosis): Hẹp động mạch phổi.
A (Abnormal genitalia): Bất thường bộ phận sinh dục.
R (Retardation): Phát triển chậm.
D (Deafnees): Điếc.
Hội chứng Peutz- Jeghers: Đây là một rối loạn do nhiễm sắc thể, có các biểu hiện bao gồm nhiều nốt ruồi ở trên môi dưới và polyp dạ dày ruột. Các mảng tăng sắc tố xuất hiện từ khi sinh ra hoặc còn nhỏ và các thương tổn trên da có thể dần dần biến mất, nhưng các thương tổn trong miệng thì không.
Tàn nhang: Tàn nhang là những đốm màu nâu hoặc cafê sữa. Các đốm này rải rác màu nâu, kích thước thường nhỏ hơn 0,5 cm, hay xuất hiện ở những vùng tiếp xúc ánh sáng mặt trời, thường xuất hiện trước 3 tuổi. Nó có biểu hiện sẫm màu ngay. Nguyên nhân có thể là do di truyền trội trên nhễm sắc thể. Số lượng tế bào sắc tố thì bình thường nhưng chúng hoạt động mạnh hơn. Tàn nhang ở vùng nách có trong u xơ thần kinh, bệnh lão hoá sớm và hội chứng Moynahan. Tăng sắc tố giống tàn nhang là một trong các dấu hiệu của khô da nhiẽm sắc.
Các mảng màu cà phê sữa (CALM): CALM là những mảng màu nâu nhạt đồng đều, rải rác, chu vi rõ ràng, kích thước 2-20 cm, xuất hiện rất sớm sau khi được sinh ra, có xu hướng biến mất đi khi đứa trẻ lớn lên. Tỷ lệ mới mắc CALM trong dân cư là 10-20% và kích thước từ 0,5-1,5 cm ở người trưởng thành. CALM được tìm thấy trong 90-100% những trường hợp u xơ thần kinh. Ở người lớn, có trên 6 thương tổn CALM kích thước lớn hơn hoặc bằng 1,5cm, còn ở trẻ em có 5 hay hơn 5 thương tổn kích thước lớn hơn 0,5 cm. và sự có mặt của nút Lisch ở mống mắt là tiêu chuẩn để chẩn đoán u xơ thần kinh. Mô học thấy có sự tăng sắc tố thượng bì. Số lượng tế bào sắc tố bình thường hoặc tăng nhẹ. Các hạt sắc tố lớn được tìm thấy trong tế bào sắc tố và tế bào sừng.
Bệnh sắc tố Becker: Một mảng màu nâu, kích thước từ vài cm đến rất lớn, ranh giới rõ nhưng bờ không đều, hay xuất hiện ở vai, dưới vú hay sau lưng, ở vào tuổi 20-30 (nam bị nhiều hơn nữ 5 lần), thường xuất hiện sau khi phơi nắng nhiều. Thời gian khởi phát, hình thái và sự xuất hiện của chứng rậm lông giúp cho phân biệt bệnh này và CALM. Mô học chỉ rõ sự tăng sắc tố thượng bì có kèm theo tăng sản cơ trơn hoặc không ở trung bì. Hiếm khi thương tổn tự nhạt màu.
Nhiễm sắc tố đầu chi của Dohi: Đây là một bệnh di truyền trội do đột biến nhiễm sắc thể với triệu chứng là nhiễm sắc tố lốm đốm xen lẫn vùng mất sắc tố ở mu tay và mu chân xuất hiện trong thời kỳ bú mẹ hay trẻ nhỏ.
Tăng sắc tố dạng võng đầu chi của Kitamura: Đây là một bệnh di truyền trội do đột biến nhiễm sắc thể với sự xuất hiện của một mạng lưới tăng sắc tố giống tàn nhang ở lưng và bàn tay xuất hiện trước tuổi 20. Ngoài ra còn thấy các lỗ nhỏ ở lòng bàn tay. Sinh thiết các mảng tăng sắc tố thấy có sự teo thượng bì và tăng số lượng tế bào sắc tố.
Rối loạn sắc tố: Có 2 loại, và được phân biệt dựa vào sự phân bố thương tổn. 1loại lan rộng được gọi là rối loạn sắc tố toàn thể và 1 loại chỉ bị ở các chi được gọi là rối loạn sắc tố đối xứng. Trong cả hai trường hợp đều có các mảng tăng hay giảm sắc tố với các kích thước và hình dạng khác nhau. Mô học chỉ rõ sự tăng sắc tố lớp đáy không kìm hãm được (dầm dề).
Bớt ota: Sự tăng sắc tố thành chấm lốm đốm gồm những điểm màu xanh hoặc nâu xuất hiện trong thời kỳ trẻ nhỏ hay thanh niên, ở nữ hay gặp gấp 5 lần ở nam. Nó thường ở 1 bên và hay bị ở mắt và khu vực da ở xung quanh chi phối bởi nhánh 1 và 2 của thần kinh 3. Rối loạn sắc tố ở mắt gặp 63% các trường hợp. Sinh thiết da cho thấy các tế bào sắc tố thượng bì lưỡng cực hay hình sao ở lớp trung bì võng. Bệnh kéo dài suốt đời mà không bao giờ tự thuyên giảm.
Bớt Ito: Đây 1 là một biến thể của bớt Ota nhưng vùng da bị ảnh hưởng được chi phối bởi đám rối thần kinh cánh tay và thần kinh thượng đòn.
Bớt Mông cổ: Sự tăng sắc tố màu xanh đen xuất hiện ngay sau khi đẻ, thường gặp trên 90% ở chủng tộc châu á, ít gặp hơn ở người da đen và dưới 10% ở người da trắng. Nó luôn luôn xuất hiện ở da vùng thắt lưng cùng hoặc ở mông. Các thương tổn thành mảng với ranh giới không rõ, kích thước từ vài cm hoặc đôi khi rất lớn. Nó thường mất đi trong vòng vài năm.
Nhiễm sắc tố dầm dề: đây là một bệnh da thần kinh di truyền trên nhiễm sắc thể X trội, thường xuất hiện ngay sau khi đẻ. Bệnh ảnh hưởng trực tiếp đến nữ giới và gây chết người ở nam giới. Có 3 giai đoạn tiến triển
Giai đoạn bọng nước mụn nước: xuất hiện khi đẻ hoặc sau đó 2 tuần
Giai đoạn hạt cơm: Có thể xuất hiện từ tuần thứ 2 đến tuần thứ 6
Giai đoạn nhiễm sắc tố: Từ tuần thứ 12 đến tuần 36. Thông thường có thể thấy cả 3 giai đoạn nhưng có tới 14% chỉ xuất hiện giai đoạn tăng sắc tố với các mảng màu nâu bẩn, màu sắc ngày càng tăng cho đến 2 tuổi và sau đó giảm dần. Các thay đổi ở tóc, móng và mắt cũng đã được mô tả. Chậm phát triển tinh thần.
Rối loạn chuyển hoá
Bệnh nhiễm sắc tố sắt: Tăng sắc tố màu thiếc hay mà đá xám, hay bị ở những vùng da tiếp xúc với ánh sáng nhưng sau đó lan rộng ở những người nam giới tuổi trung niên với các triệu chứng gan to, tiểu đường và sắt huyết thanh cao. Sinh thiết những vùng bị nhiễm sắc tố với potasium ferrocyanide thấy lắng đọng hemosiderin xung quanh tuyến mồ hôi và các mao mạch ở da.
Thoái hoá bột: Sự nhiễm sắc tố tại chỗ, thường đối xứng đã được quan sát cả trong lichen và thoái hóa bột thành mảng. Loại mảng có dạng lăn tăn “dải ruy băng” đặc biệt và soi trên kính hiển vi thấy có amyloid và TB sắc tố ở nhú trung bì.
Rối loạn nội tiết
Bệnh rám má (Melasma): Sẽ được trình bày chi tiết ở phần sau.
Bệnh Addison: Với dát màu nâụ rải rác khắp toàn thân do tăng cường sản xuất MSH và ACTH (là 2 hormon của tuyến yên). Mặc dù, các dát sắc tố rải rải khắp toàn thân nhưng tập trung nhiều ở vùng bộc lộ với ánh sáng.
Dát sắc tố trong thời kỳ mang thai: Có rất nhiều phụ nữ thời kỳ đang mang thai, thương tổn xuất hiện là các dát sắc tố ở vùng hở như cổ, mặt, vú, vùng sinh dục ngoài, đường trắng giữa…. Do nội tiết thay đổi trong thời kỳ này.
Hoá chất hay thuốc
Do thuốc phải kể đến bệnh hồng ban cố định nhiễm sắc.
Những hoá chất hay thuốc gây ra tăng sắc tố da thường là các hoá chất có nguồn gốc dầu mỏ, mỹ phẩm, nước hoa. Những chất này làm cho da tăng nhạy cảm với ánh sáng và nhiễm sắc tố sau đó chủ yếu gặp ở những vùng hở.
Dinh dưỡng
Rối loạn dinh dưỡng gây tăng sắc tố da, nguyên nhân hàng đầu phải kể đến thiếu vitamin A, vitamin B12, vitamin PP, biểu hiện chủ yếu gặp ở những vùng hở.
Yếu tố vật lý
Do các yếu tố vật lý như cháy nắng, rám nắng ở những vùng hở bộc lộ với ánh sáng mặt trời mà không được bảo vệ.
Viêm hay nhiễm khuẩn
Có thể tăng sắc tố da sau một viêm cấp tính hay mạn tính, tăng sắc tố có thể đơn thuần khu trú ở lớp thượng bì, cũng có khi ở cả lớp trung bì là do đại thực bào ăn sắc tố sau đó khu trú ở trung bì nông.
Có thể tăng sắc tố do một bệnh nhiễm nấm như lang ben.
Khối u
Các bớt sắc tố, các đám da dày tăng tiết chất bã và tăng sắc tố ở người trung tuổi, ở mặt, ở trên mình hay các u tế bào sắc tố (Lentigo maligna-Melanoma).
Nguyên nhân khác
Tăng sắc tố ở một số bệnh hệ thống, bệnh nhiễm khuẩn mạn tính (lao, sốt rét), Lymphoma, Acanthosis - Nigricans, xơ cứng bì, suy thận.
Bài viết cùng chuyên mục
Soi phế quản ống mềm
Dùng ống soi đưa vào đường hô hấp, hệ thống khí phế quản giúp quan sát tổn thương và can thiệp điều trị.
Ngừng tuần hoàn
Mục đích của hồi sinh tim - phổi là cung cấp tạm thời tuần hoàn và hô hấp nhân tạo, qua đó tạo điều kiện phục hồi tuần hoàn và hô hấp tự nhiên có hiệu qủa.
Chăm sóc bệnh nhân ngộ độc thuốc trừ sâu
Bệnh nhân uống thuốc trừ sâu, nôn, và thở có mùi thuốc trừ sâu. Mức độ trung bình, nhức đầu, nôn, vã mồ hôi, chân tay lạnh, mạch nhanh, vẫn tỉnh, huyết áp bình thường.
Chảy máu liên quan đến điều trị tiêu huyết khối
Thời gian chảy máu như một chỉ dẫn chức năng tiểu cầu, có thể là một hướng dẫn hữu ích đối với điều trị bồi phụ tiểu cầu, nếu bệnh nhân có thời gian chảy máu kéo dài mặc dù đã bồi phụ các yếu tố đông máu.
Ảnh hưởng sinh lý của thông khí nhân tạo
Trong điều kiện tự thở, AL trong lồng ngực luôn âm. AL dao động từ -5 cmH2O (thở ra) đến -8 cmH2O (hít vào). AL phế nang dao động từ +1 cmH2O (thở ra) đến -1 cmH2O (hít vào).
Hướng dẫn chăm sóc bệnh nhân thở máy
Theo dõi tình trạng lâm sàng và SpO2 trong khi hút: nếu Bn xuất hiện tím hoặc SpO2 tụt thấp <85-90% phải tạm dừng hút: lắp lại máy thở với FiO2 100% hoặc bóp bóng oxy 100%.
Rối loạn kinh nguyệt
Là triệu chứng nhưng đôi khi cần phải điều trị mặc dù chưa rõ nguyên nhân bệnh nhưng gây băng kinh, băng huyết, rong kinh kéo dài...
Co giật và động kinh
Co giật cũng được phân loại là cục bộ hoặc toàn thân dựa trên mức độ ảnh hưởng lên giải phẫu thần kinh hoặc được phân loại là đơn giản hay phức tạp dựa trên ảnh hưởng của co giật lên tình trạng ý thức.
TRỨNG CÁ - GIẢI PHÁP HẠN CHẾ VÀ TRỊ MỤN VÀO MÙA HÈ!
Trứng cá là bệnh rất thường gặp, gặp ở cả hai giới nam và nữ, hay gặp hơn cả ở tuổi dậy thì, nguyên nhân là do vào lúc dậy thì nội tiết tố sinh dục được tiết ra nhiều
Phương thuốc cổ truyền trừ ho
Theo ý đó, phương thuốc cổ truyền cũng bao gồm nhiều vị tá, tạo ra tính phong phú về tác dụng cho phương thuốc, góp phần nâng cao hiệu quả trị bệnh chung.
Quy trình kỹ thuật thở ô xy
Tất cả các bệnh nhân thở Oxy phải làm ẩm khộng khí thở vào để đảm bảo tối ưu chức năng của nhung mao tiết nhầy đường hô hấp, đồng thời đảm bảo độ ấm.
Các phản ứng truyền máu
Các triệu chứng sớm bao gồm bắt đầu đột ngột tình trạng lo lắng, đỏ bừng, nhịp nhanh và tụt huyết áp. Đau ngực, đau bụng, sốt và khó thở là các biểu hiện thường gặp.
Hội chứng HELLP
Bản chất HELLP là một thể lâm sàng đặc biệt của nhiễm độc thai nghén, Phù, tăng huyết áp và protein niệu.
Rau bong non
Tại cơ sở và địa phương: Tuyên truyền, giáo dục để mọi người, đặc biệt là chị em biết cách tự phát hiện thấy những dấu hiệu bất thường để tự giác đi khám lý thai tại các và quản cơ sở y tế.
Thông khí không xâm nhập áp lực dương
CPAP ( Continuous Positive Airway Pressure, áp lực dương tính liên tục): bệnh nhân tự thở trên nền áp lực đường thở dương tính liên tục.
Đông máu rải rác trong lòng mạch (DIC)
Ban xuất huyết và bầm máu toàn thân, chảy máu từ các vị trí chọc tĩnh mạch ngoại vi, catheter tĩnh mạch trung tâm, vết thương và rỉ máu từ lợi là các biểu hiện thường gặp.
Sử dụng hiệu quả insulin điều trị đái tháo đường
Tất cả các bệnh nhân đái tháo đường có thể trở nên cần điều trị bằng insulin một cách tạm thời hoặc vĩnh viễn khi tụy không tiết đủ lượng insulin cần thiết.
Dung dịch vệ sinh phụ nữ chất lượng cao
Cùng với hơn 100 doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam, Dạ Hương tiếp tục góp mặt tại hội chợ lần thứ 9 Hàng Việt Nam chất lượng cao, tổ chức tại thủ đô Phnompenh, Campuchia.
Cơn nhịp nhanh kịch phát trên thất
Cơn nhịp nhanh kịch phát trên thất, gọi tắt là tim nhanh trên thất là một thuật ngữ rộng bao hàm nhiều loại rối loạn nhịp nhanh có cơ chế và nguồn gốc khác nhau.
Mất đồng bộ cơ tim ở bệnh nhân tăng huyết áp
Trong hoạt động điện học, do sự bất thường của xung động, và sự dẫn truyền, trình tự hoạt động điện học của cơ tim mất sinh lý, và mất đồng bộ
Làm gì khi bị sốt cao, cảm cúm?
Khi nhiễm virus đặc biệt là virus cúm bệnh nhân cần nghỉ ngơi, có thể dùng thuốc hạ sốt giảm đau… đặc biệt phải bù nước và điện giải nhằm dự phòng và giảm đáng kể thời gian các triệu chứng.
Quy trình kỹ thuật khí dung thuốc
Khí dung trị liệu có thể được cụng cấp bằng bình phun thể tích nhỏ (SVN Small-Volume-Nebulizer) hoặc ống hít có phân liều (MDI Metered-Dose-Inhaler).
Vắc xin Covid-19 Sputnik V: Pháp có thể bắt đầu tiêm chủng vào tháng 6
Bộ trưởng Ngoại giao các vấn đề châu Âu cho biết việc Pháp sử dụng vắc xin do Nga sản xuất phụ thuộc vào việc liệu nước này có nhận được sự chấp thuận của EU hay không.
Tổn thương phổi và viêm phổi do hít phải
Sặc phổi là nguyên nhân quan trọng gây các hình thái bệnh nặng và tử vong khi chăm sóc người bệnh tại nhà cũng như trong bệnh viện
MERS
Lần đầu tiên xuất hiện MERS ở bán đảo Ả Rập năm 2012. Bắt đầu từ giữa tháng ba năm 2014, có sự gia tăng đáng kể về số lượng các trường hợp MERS báo cáo trên toàn thế giới