- Trang chủ
- Thuốc A - Z
- Một số vấn đề dược lý học
- Dùng thuốc trong thời kỳ mang thai và cho con bú
Dùng thuốc trong thời kỳ mang thai và cho con bú
Thuốc có thể gây hại thai vào bất cứ thời điểm nào trong thời kỳ mang thai. Bao giờ cũng phải nhớ điều này mỗi khi kê đơn cho phụ nữ ở tuổi mang thai.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Thời kỳ mang thai
Cho tới giữa thế kỷ trước, đa số thầy thuốc vẫn nghĩ tử cung là một môi trường bảo vệ thai và là một lá chắn đối với môi trường bên ngoài. Ngày nay, quan niệm hàng rào nhau thai cần loại bỏ.
Thuốc có thể gây hại thai vào bất cứ thời điểm nào trong thời kỳ mang thai. Bao giờ cũng phải nhớ điều này mỗi khi kê đơn cho phụ nữ ở tuổi mang thai.
Thuốc có thể gây nhiều tác hại tới thai đang lớn, phụ thuộc vào thời gian tiếp xúc. Trong hai tuần đầu kể từ khi thụ thai đến giai đoạn đầu chưa biết có thai, phôi được coi là kháng với tác dụng gây quái thai của thuốc. Giai đoạn tối quan trọng của phát triển phôi, khi các hệ thống cơ quan phát triển, bắt đầu khoảng 17 ngày sau thụ thai và hoàn thành vào ngày thứ 60 đến 70. Tiếp xúc với một số thuốc trong giai đoạn này (ngày thứ 17-70) có thể gây khuyết tật bẩm sinh lớn.
Trong 3 tháng thứ nhì và thứ ba của thai kỳ, thuốc có thể tác động đến phát triển tăng trưởng và chức năng của thai và gây độc cho mô thai; thuốc cho ngay trước thai kỳ đến hạn hoặc trong lúc chuyển dạ đẻ có thể có tác dụng xấu đến chuyển dạ hoặc cho trẻ sơ sinh sau khi đẻ. Thuốc chuyển hóa chậm hơn nhiều ở người mang thai so với khi không mang thai.
Thực nghiệm trên động vật cung cấp rất nhiều thông tin liên quan đến tác dụng gây quái thai của thuốc. Nhưng không may là các kết quả trên thực nghiệm không thể suy từ động vật sang người được. Kinh nghiệm dùng thuốc trong thời kỳ mang thai còn hạn chế. Do đó thuốc chỉ được kê đơn trong thời kỳ mang thai khi lợi ích đối với bà mẹ lớn hơn nguy cơ đối với thai, và phải tránh dùng tất cả các thuốc, nếu có thể được trong ba tháng đầu thai kỳ. Không có một thuốc nào được coi là an toàn 100% cho thai đang phát triển. Khi kê đơn, nên chọn các thuốc đã được dùng rộng rãi trong thời kỳ mang thai và thường tỏ ra an toàn hơn là kê đơn dùng thuốc mới hoặc chưa được thử thách, và phải dùng liều thấp nhất có hiệu quả.
Một vài thuốc đã được kết luận gây quái thai ở người nhưng không có một thuốc nào có thể coi là an toàn tuyệt đối trong thời kỳ đầu mang thai.
Thời kỳ cho con bú
Trẻ nhỏ có thể bị nhiễm độc khi một lượng đủ lớn thuốc vào sữa có tác dụng dược lý. Hầu hết các thuốc bà mẹ dùng đều qua sữa ở một mức độ nào đó.
Một vài thuốc (thí dụ ergotamin) dùng cho bà mẹ cho con bú có thể gây độc cho trẻ nhỏ, trong khi đó các thuốc khác (thí dụ digoxin) lại ít tác động đến trẻ sơ sinh. Ý nghĩa của nhiều bảng nồng độ thuốc trong sữa mẹ chỉ có nghĩa là thuốc có vào trong sữa nhưng không đưa ra được lời khuyên nào cho thầy thuốc. Thầy thuốc cần biết các kết quả nghiên cứu trên động vật trong lĩnh vực này và nguy cơ tiềm tàng đối với trẻ bú mẹ khi mẹ dùng thuốc. Nhưng đối với nhiều thuốc, hiện nay chưa có sẵn số liệu để hướng dẫn. Quyết định cuối cùng phải tùy từng trường hợp, tùy theo đặc điểm bệnh và phương thức điều trị. Thầy thuốc bao giờ cũng phải cân nhắc tỷ lệ nguy cơ trên lợi ích khi kê đơn bất cứ một thuốc nào cho người mẹ cho con bú. Nếu sau khi cân nhắc nguy cơ trên lợi ích, mà thầy thuốc quyết định phải dùng thuốc cho mẹ, thì lúc đó phải làm cho trẻ nhỏ tiếp xúc ít nhất với thuốc bằng cách cho mẹ dùng thuốc mỗi lần ngay sau khi cho con bú. Một quy tắc tốt là: Nếu dùng thuốc trực tiếp cho trẻ mà an toàn thì thuốc đó cũng thường an toàn khi dùng cho người mẹ cho con bú.
Cũng như khi mang thai, thuốc thường được kê cho bà mẹ cho con bú để chữa các triệu chứng mà không cần thiết phải điều trị. Nếu các bà mẹ được thầy thuốc cho biết về các nguy cơ có thể xảy ra với đứa trẻ thì hầu hết họ thà chịu đựng các triệu chứng đó hơn là dùng thuốc và ngừng cho con bú.
Bài viết cùng chuyên mục
Pha thuốc tiêm vào dịch truyền tĩnh mạch
Pha thêm thuốc vào dịch truyền tĩnh mạch đòi hỏi kiến thức và kỹ năng chuyên môn, nên hiện nay tại nhiều khoa Dược các bệnh viện lớn người ta đã lập các.
Định hướng sử dụng các Cephalosporin
Cephalosporin thế hệ 4, như cefepim, có phổ kháng khuẩn rộng so với thuốc thế hệ 3 và có độ bền vững cao đối với sự thủy phân bởi các beta - lactamase qua trung gian thể nhiễm sắc và plasmid.
Dị ứng thuốc và cách xử trí
Phản vệ là một phản ứng dị ứng nặng, rất dễ gây tử vong, cần phải điều trị đúng và nhanh. Cần tập huấn thấu đáo, thường xuyên, cho mọi cán bộ y tế lâm sàng để biết xử lý đúng.
Một số vấn đề về giảm đau
Điều trị đau cấp trầm trọng bằng thuốc giảm đau loại opiat khi không có chống chỉ định đặc hiệu. Morphin là thuốc lựa chọn hàng đầu.
Nguyên tắc kê đơn thuốc
Một đơn thuốc tốt phải thể hiện được các yêu cầu: Hiệu quả chữa bệnh cao, an toàn trong dùng thuốc và tiết kiệm. Muốn kê đơn thuốc tốt phải tuân theo quy trình.
Sử dụng hợp lý thuốc kháng động kinh
Khi phân loại theo nguyên nhân, người ta phân biệt giữa động kinh tự phát nghĩa là loại bệnh không thấy rõ nguyên nhân ngoài các yếu tố di truyền.
Ký hiệu chữ viết tắt trong dược khoa
ACTH Adrenocorticotropic hormon, Acetyl CoA Acetylcoenzym A, ADH Hormon chống bài niệu, ADN (hoặc DNA) Acid desoxyribonucleic, ADP Adenosin diphosphat, ADR Tác dụng không mong muốn.
Danh mục thuốc đường tiêu hóa và chuyển hóa theo mã ATC
A01A B: Thuốc chống nhiễm khuẩn để điều trị tại chỗ ở miệng. 02 Hydrogen peroxid. 03 Clorhexidin. 04 Amphotericin. 08 Neomycin. 09 Miconazol. 13 Tetracyclin. 17 Metronidazol. 18 Clotrimazol.
Xử trí tác dụng phụ của thuốc loạn thần
Thuốc chống loạn thần nói chung có chỉ số điều trị cao và là những thuốc tương đối an toàn. Trong các thuốc đó, phần lớn các phenothiazin có đường biểu diễn về liều lượng - đáp ứng tương đối dẹt và có thể dùng trong một phạm vi liều lượng rộng.
Sử dụng hợp lý thuốc kháng sinh
Thuốc kháng sinh cần được sử dụng hạn chế và chỉ khi thật cần thiết. Lạm dụng thuốc kháng sinh hiện nay phổ biến là dùng thuốc khi không cần thiết.
Các thuốc đưa vào đường truyền tĩnh mạch
Các thông tin trong chuyên luận này liên quan đến các chế phẩm của nhà sản xuất thuốc đó, còn với các chế phẩm khác, cần tham khảo tài liệu của chính nhà sản xuất thuốc.
Phân loại thuốc theo mã giải phẫu điều trị hóa học
Thuốc được bào chế trong một hỗn hợp nhiều thành phần cũng có mã riêng. Ðiều đó giúp cho các thầy thuốc có định hướng chi tiết hơn khi sử dụng.
Vấn đề tương tác thuốc
Nhiệm vụ của người thầy thuốc là phải hiểu những nguyên lý cơ bản của tương tác thuốc trong việc xây dựng phác đồ điều trị. Những tương tác đó được đề cập ở từng chuyên luận.
Sử dụng hợp lý thuốc kháng virus và điều trị nhiễm khuẩn ở bệnh nhân nhiễm HIV
Người ta đã thấy nhờ điều trị bằng thuốc kháng retrovirus có thể kéo dài cuộc sống của người bệnh có lượng tế bào CD4 dưới 500 tế bào mm3.
Các nhóm thuốc đường tiêu hóa
Thuốc chống acid không làm giảm lượng acìd chlorhydric tiết ra, và việc nâng pH trong dạ dày lại kích thích tiết thêm acid và pepsin.
Điều trị hợp lý bệnh hen phế quản
Y học hiện đại đã cho thấy co thắt đường thở do hen, ngoài cơn cũng như lúc lên cơn hen nặng, đều do viêm. Đường thở người hen thâm nhiễm nhiều tế bào viêm, bao gồm bạch cầu ưa eosin, đại thực bào và lympho bào.
Vắc xin Covid-19: quy trình thử nghiệm từ phòng thí nghiệm đến phòng khám
Giống như tất cả các loại thuốc, mọi loại vắc xin đều phải trải qua quá trình thử nghiệm rộng rãi và nghiêm ngặt để đảm bảo nó an toàn trước khi có thể được đưa vào chương trình vắc xin của một quốc gia.
Nguyên tắc sử dụng kháng sinh ở trẻ em
Liệu pháp dùng thuốc an toàn và hiệu quả ở trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ và trẻ em đòi hỏi phải có sự hiểu biết về những thay đổi trong quá trình trưởng thành đã tác động đến tác dụng.
Một số thuật ngữ dược khoa
Adrenergic, Được hoạt hóa, hoặc có đặc tính của adrenalin hoặc tiết ra adrenalin, đặc biệt khi nói về các sợi thần kinh giao cảm tiết ra adrenalin và noradrenalin.
Các thuốc điều trị đái tháo đường
Các thuốc điều trị đái tháo đường gồm có Insulin và các thuốc uống. Insulin là nội tiết tố tuyến tụy có khả năng làm hạ đường máu bằng cách giúp đường vào trong tế bào cơ.
Bệnh lý tiêu hóa, gan, thận đối với liều dùng của thuốc
Trong lâm sàng, thay đổi hấp thu thuốc nổi trội nhất là do nôn và ỉa chảy, do đó cần đặc biệt quan tâm khi cho người bệnh dùng thuốc.
Phòng ngừa và xử trí tác dụng phụ của thuốc (ADR)
Không cần thiết phải xác nhận những triệu chứng nhận xét thấy có thật sự là tác dụng có hại hay phụ không.