Vaccin lao

2011-06-21 01:04 PM

Vì chủng Calmette Guerin của vi khuẩn M.bovis Calmette Guerin trong vaccin BCG có đặc tính miễn dịch học tương tự như chủng gây ra bệnh lao ở người là M.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Tên quốc tế: Vaccinum tuberculosis (BCG) cryodesiccatum.

Loại thuốc: Vaccin.

Dạng thuốc và hàm lượng

Bột đông khô để tiêm.

Vaccin BCG (BCG: Bacillus Calmette - Guerin) là chế phẩm dạng đông khô của chủng Calmette - Guerin giảm hoạt lực, có nguồn gốc từ vi khuẩn Mycobacterium bovis. Hiện có nhiều loại vaccin BCG lưu hành trên thế giới; vaccin BCG được điều chế bằng phương pháp đông khô hỗn dịch vi khuẩn nuôi cấy trong môi trường có chứa dextran, glucose và Triton WR 1339 hoặc có chứa glycerin, asparagin, acid citric, kali phosphat, magnesi sulphat và sắt ammoni citrat. Sau khi pha để tiêm chủng qua da theo như chỉ dẫn, vaccin BCG chứa 100 - 800 triệu đơn vị tạo khuẩn lạc bacillus BCG trong 1ml; dịch thuốc tiêm không được có các loại vi khuẩn khác. Vaccin BCG do Việt Nam sản xuất chứa 1 mg BCG trong 1 ống; dung dịch để pha tiêm là dung dịch natri clorid 0,9%, mỗi ống chứa 2 ml.

Tác dụng

Vaccin BCG dùng để tạo miễn dịch chủ động đối với bệnh lao. Vì chủng Calmette Guerin của vi khuẩn M.bovis Calmette - Guerin trong vaccin BCG có đặc tính miễn dịch học tương tự như chủng gây ra bệnh lao ở người là M. tuberculosis, nên tiêm vaccin BCG kích thích nhiễm M. tuberculosis tự nhiên và thúc đẩy miễn dịch qua trung gian tế bào chống lại bệnh lao.

Tiêm vaccin BCG nói chung gây được mẫn cảm với tuberculin, nhưng mức độ mẫn cảm này rất khác nhau và phụ thuộc một phần vào chủng BCG trong vaccin. Khả năng gây được mẫn cảm với tuberculin của một loại vaccin BCG nào đó thường được dùng để chứng tỏ tiềm năng tạo miễn dịch của vaccin đó và phản ứng tuberculin trên da (tuberculin test) chuyển biến dương tính sau khi tiêm phòng thường được dùng để chứng tỏ tính miễn dịch chống lại bệnh lao. Tuy nhiên, mối liên quan giữa mẫn cảm với tuberculin sau khi tiêm phòng vaccin BCG và khả năng miễn dịch chống lao cho tới nay vẫn còn chưa được nghiên cứu thoả đáng. Hiệu quả của các loại vaccin BCG hiện có còn chưa được chứng minh một cách trực tiếp và chỉ có thể là suy đoán. Mặc dầu khả năng bảo vệ của vaccin chống lại bệnh lao do M. tuberculosis có thể thay đổi nhiều, nhưng bằng chứng về chẩn đoán và lâm sàng đã chứng minh tỷ lệ mắc bệnh lao của những đối tượng được tiêm chủng đã giảm so với người chưa được tiêm phòng.

Thời hạn bảo vệ chống lại nhiễm lao sau tiêm vaccin BCG vẫn chưa được xác định và phụ thuộc vào hoạt lực và liều lượng của loại vaccin dùng. Trong một số công trình nghiên cứu, mẫn cảm tuberculin tồn tại 7 - 10 năm sau khi tiêm vaccin BCG; tuy nhiên chưa xác định được mối liên quan rõ ràng giữa mẫn cảm tuberculin và miễn dịch.

Chỉ định

Vaccin BCG được khuyên dùng cho các nhóm người chưa được tiêm phòng (bằng chứng là chưa có một vết sẹo đặc trưng của vaccin BCG) hoặc những người có phản ứng tuberculin âm tính.

Vaccin BCG được dùng để đề phòng và kiểm soát lao: Vaccin BCG tạo miễn dịch chủ động đối với bệnh lao. ở những nước đang phát triển, nơi mà bệnh lao thành dịch và việc phòng ngắn ngày bằng các thuốc trị lao (như isoniazid) hoặc việc làm phản ứng tuberculin trên da để sàng lọc không thực hiện được, thì vaccin BCG được dùng một cách thường xuyên với mục đích kiểm soát bệnh lao. Do đó, có chỉ định dùng vaccin BCG như một chiến lược thường quy để kiểm soát bệnh lao ở các nước đó. Tổ chức y tế thế giới hiện nay khuyến cáo tiêm chủng BCG cho tất cả các trẻ sơ sinh ở các nước đang phát triển, bao gồm cả các trẻ em mắc HIV chưa có triệu chứng là những cháu có nhiều nguy cơ mắc lao.

Vaccin BCG được tiêm ngay khi sinh ra hoặc bất cứ thời gian nào sau đó, nhưng 3 tháng tuổi là tuổi tiêm phòng tốt nhất (đối với trẻ đẻ thiếu tháng, hoặc nhẹ cân) (theo lịch tiêm phòng của Việt Nam).

Chống chỉ định

Không được dùng vaccin BCG cho người quá mẫn với vaccin. Chống chỉ định dùng vaccin BCG cho người có phản ứng tuberculin trên da dương tính cao, người vừa mới chủng vaccin đậu mùa, người bị bỏng.

Không được dùng vaccin BCG cho những người bị giảm gammaglobulin trong máu, suy giảm miễn dịch bẩm sinh, bệnh sarcoid, bệnh bạch cầu, u limpho, bệnh ác tính lan tỏa, nhiễm HIV hoặc bất cứ bệnh nào mà đáp ứng miễn dịch tự nhiên bị tổn thương. Cũng chống chỉ định dùng vaccin BCG đối với những người có đáp ứng miễn dịch bị ức chế do điều trị kéo dài bằng liệu pháp ức chế miễn dịch (corticosteroid, một vài thuốc chống ung thư, tia xạ).

Thận trọng

Phản ứng tuberculin trên da, tốt nhất là phương pháp Mantoux phải được thực hiện trong thời gian 6 tuần trước khi dùng vaccin BCG (loại trừ trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ dưới 2 tháng tuổi); vaccin BCG chỉ được tiêm cho người có phản ứng tuberculin âm tính hoặc phản ứng không đáng kể.

Bảo vệ chống lao bằng vaccin BCG chỉ là tương đối, không thường xuyên hoặc hoàn toàn tiên đoán được. Cần phải chẩn đoán phân biệt bệnh lao với bất cứ bệnh nào tương tự bệnh lao ở người đã tiêm BCG, vì không thể bảo đảm chắc chắn khả năng bảo vệ kéo dài và đầy đủ của vaccin BCG.

Thời kỳ mang thai

Chưa rõ vaccin có thể gây tổn hại đối với bào thai khi dùng cho người mang thai hoặc có tác động tới khả năng sinh sản hay không. Vaccin BCG chỉ dùng cho người mang thai khi thật cần.

Thời kỳ cho con bú

Hiện chưa có các dữ liệu về vấn đề này.

Tác dụng phụ

Thường gặp

Loét nặng hoặc kéo dài ở vùng tiêm, apxe da ở vùng tiêm.

Viêm hạch bạch huyết, nổi hạch tại chỗ.

Hiếm gặp

Lỗ rò, sốc phản vệ.

Rất hiếm gặp

Viêm cốt tủy xương, nhiễm BCG lan tỏa.

Xử trí

Các phản ứng tại chỗ và ở da do BCG có khuynh hướng nặng hơn nhiều ở người đã được tiêm phòng trước đó với vaccin. Các tổn thương này có thể do kỹ thuật tiêm sai (thí dụ tiêm quá sâu) hoặc bội nhiễm hoặc chọn sai vị trí tiêm (thí dụ quá gần vai). Cần tiêm đúng kỹ thuật, vô khuẩn tốt và chọn đúng vị trí tiêm.

Nếu có lỗ rò, vị trí dẫn lưu phải được giữ sạch và để tổn thương tự liền không cần điều trị.

Phải có sẵn adrenalin để dùng ngay khi có sốc phản vệ.

Chống chỉ định tiêm BCG cho những người suy giảm miễn dịch.

Liều lượng và cách dùng

Tổ chức y tế thế giới hiện nay khuyến cáo rằng vaccin BCG nên tiêm trong da hơn là theo phương pháp châm nhiều điểm, nhằm cung cấp lượng thuốc đồng đều và đáng tin cậy; vaccin BCG sản xuất tại Việt Nam được tiêm trong da.

Trẻ nhỏ dưới 1 tuổi: vaccin BCG tiêm trong da (Việt Nam) được pha bằng cách thêm 2 ml dung dịch natri clorid 0,9% ở nhiệt độ 0 - 80C vào mỗi ống 1 mg vaccin đông khô. Lắc ống để bảo đảm trộn đều. Tiêm trong da, vùng trên cánh tay trái (vùng cơ delta), với liều 0,1 ml (0,05 mg BCG).

Trẻ trên 1 tuổi: Vaccin BCG tiêm trong da (Việt Nam) được pha bằng cách thêm 1 ml dung dịch natri clorid 0,9% ở nhiệt độ 0 - 80C vào mỗi ống 1 mg vaccin đông khô. Lắc ống để đảm bảo trộn đều.

Tiêm liều 0,1 ml (0,1 mg BCG) vào trong da, vùng trên cánh tay trái (vùng cơ delta).

Tương tác

Có thể dùng đồng thời vaccin BCG với vaccin bại liệt và vaccin viêm gan B.

Người bệnh dùng đồng thời theophylin với tiêm vaccin BCG bị ức chế tạm thời sự chuyển hóa ở gan (có thể do sản xuất interferon), làm tăng nửa đời và nồng độ theophylin trong huyết thanh, do đó có khả năng nhiễm độc theophylin.

Thuốc ức chế miễn dịch: Người đang điều trị thuốc ức chế miễn dịch (thí dụ corticotropin, corticosteroid, thuốc alkyl hóa, thuốc chống chuyển hóa, liệu pháp tia xạ) có thể bị giảm đáp ứng với vaccin BCG và tăng nhân lên của BCG. Tiêm phòng BCG phải hoãn lại cho tới khi ngừng liệu pháp ức chế miễn dịch.

Thuốc chống lao: Một số thuốc chống lao (thí dụ isoniazid, rifampicin, streptomycin) ức chế sự nhân lên của BCG, do đó vaccin BCG có thể không tác dụng khi tiến hành tiêm chủng trong khi đang điều trị với các thuốc này.

Bảo quản

Vaccin BCG dạng đông khô dùng để tiêm cần tránh ánh sáng và bảo quản trong điều kiện lạnh dưới 5 độ C, ở - 20 độ C đối với vaccin BCG sản xuất tại Việt Nam.

Nhà sản xuất thông báo rằng, vaccin BCG tiêm chủng qua da sau khi pha cần phải giữ trong điều kiện lạnh, tránh ánh sáng, và sử dụng trong vòng 2 giờ sau đó.

Vaccin BCG sản xuất ở Việt Nam để tiêm trong da sau khi pha, phải được bảo quản lạnh và chỉ dùng trong vòng 4 giờ.

Quá liều và xử trí

Nếu xảy ra quá liều cấp vaccin BCG và nghi có thể phát triển nhiễm khuẩn BCG toàn thân, phải bắt đầu dùng isoniazid hoặc các thuốc chống lao thích hợp khác. Nếu điều trị ngay quá liều cấp BCG bằng liệu pháp chống lao, thì thường các biến chứng sẽ không xảy ra. Nếu không được điều trị ngay thì liệu pháp thuốc chống lao có thể vẫn có kết quả nhưng có thể xảy ra các biến chứng như viêm hạch tại chỗ, lupút thông thường, áp xe lạnh dưới da, và tổn thương mắt.

Bài viết cùng chuyên mục

Vaccin não mô cầu

Vaccin não mô cầu có tác dụng kích thích miễn dịch chủ động đối với Neisseria meningitidis; khả năng bảo vệ chỉ có đối với vi khuẩn thuộc nhóm huyết thanh nào có trong vaccin.

Vecuronium

Vecuronium bromid là thuốc phong bế thần kinh - cơ không khử cực, có cấu trúc aminosteroid, với thời gian tác dụng trung bình. Thuốc gắn với thụ thể cholinergic ở màng sau sinap, do đó thuốc phong bế cạnh tranh tác dụng dẫn truyền của acetylcholin ở bản vận động của cơ vân.

Vinorelbine tartrat: thuốc chống ung thư, Navelbine, Vinorelbine, Vinorelsin

Vinorelbin gắn vào tubulin là protein trong vi quản của suốt phân bào, phức hợp tubulin vinorelbin cản trở sự trùng hợp của các tiểu đơn vị tubulin nên các vi quản trong tế bào không được hình thành

Vắc xin Covid-19 EpiVacCorona (Nga): hiệu quả liều lượng và cách sử dụng

Vào tháng Giêng, Nga đã khởi động một chiến dịch tiêm chủng hàng loạt bao gồm EpiVacCorona. Vào tháng Hai, Tass báo cáo rằng phản ứng miễn dịch từ EpiVacCorona kéo dài “trong khoảng một năm”.

V. Rohto

Tác dụng phục hồi từ mắt mỏi, trở về tình trạng bình thường, và phòng ngừa mỏi mắt, kích hoạt hô hấp mô, để khắc phục và dự phòng mắt mỏi.

Verapamil

Verapamil là một thuốc chẹn kênh calci, ngăn cản dòng Ca2+ đi qua kênh, chậm vào tế bào thần kinh dẫn truyền và tế bào cơ tim (tác dụng chống loạn nhịp) và vào tế bào cơ trơn thành mạch (tác dụng giãn mạch).

Vaccin giải độc tố bạch hầu

Giải độc tố bạch hầu được điều chế từ độc tố vi khuẩn bạch hầu thu được từ môi trường nuôi cấy chủng vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae đã được xử lý bằng formaldehyd.

Vinorelsin

Phản ứng phụ nhiễm trùng, giảm bạch cầu, thiếu máu, giảm tiểu cầu, dị ứng, táo bón, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, bất thường chức năng gan, dị cảm, rối loạn vận động, khó thở.

Verorab

Việc tiêm chủng phải được khởi sự ngay lập tức khi có bất cứ nguy cơ lây nhiễm dại nào và bắt buộc phải được thực hiện tại một trung tâm chống dại.

Volmax

Chất giải độc thường dùng trong trường hơp quá liều Volmax là tác nhân ức chế bêta chọn lọc trên tim, nhưng nên dùng các thuốc ức chế bêta cẩn thận trên bệnh nhân có tiền sử co thắt phế quản.

Vitreolent

Vitreolent chứa iodide nên có thể gây cường giáp và nổi mụn kiểu trứng cá ở những bệnh nhân có yếu tố thuận lợi.

Vancocin CP

Vancomycin hydrochloride là kháng sinh thuộc nhóm glycopeptide ba vòng, được làm tinh khiết bằng phương pháp sắc ký

Vaccin bại liệt uống

Vaccin Sabin phòng bệnh bại liệt là một hỗn dịch gồm có 3 typ 1, 2, 3 virus bại liệt sống, giảm độc lực. Các virus này được nhân lên trong môi trường nuôi cấy là các tế bào thận khỉ hoặc tế bào VERO.

Vaccin thương hàn

Vaccin thương hàn dùng để kích thích tạo miễn dịch chủ động phòng chống bệnh thương hàn cho những người có nguy cơ phơi nhiễm cao.

Mục lục thuốc và biệt dược theo vần V

V - cillin - xem Phenoxymethyl penicilin, Vaccin bạch hầu - uốn ván - ho gà hấp phụ, Vaccin bại liệt bất hoạt, Vaccin bại liệt uống, Vaccin BCG - xem Vaccin lao, Vaccin dại.

Ventolin Inhaler

Thận trọng. Bệnh nhân cường giáp. Khi điều trị đồng thời dẫn xuất xanthin, steroid, thuốc lợi tiểu. Khi thiếu oxy mô. Phụ nữ có thai, cho con bú: cân nhắc sử dụng khi lợi ích vượt trội nguy cơ.

Vaccin sốt vàng

Vaccin sốt vàng có tác dụng thúc đẩy hình thành miễn dịch chủ động đối với bệnh sốt vàng, được dùng cho những người có nguy cơ phơi nhiễm cao.

Visine Original

Visine là tên thương mại của tetrahydrozolin hydrochloride, là dung dịch đệm, vô khuẩn, đẳng trương, dùng nhỏ mắt chứa tetrahydrozolin HCl 0,05%, boric acid, sodium borate, sodium chloride và nước.

Vắc xin Covid-19 Vaxzevria (AstraZeneca): hiệu quả liều lượng và cách sử dụng

Một loại vắc xin được nghiên cứu bởi Đại học Oxford và được sản xuất bởi công ty AstraZeneca của Anh-Thụy Điển đã nổi lên như một yếu tố quan trọng trong nỗ lực đáp ứng nhu cầu toàn cầu về các loại vắc-xin phòng ngừa covid-19.

Ventolin

Salbutamol sulfate, có tác động chọn lọc lên thụ thể trên cơ phế quản, và có rất ít hay không có tác động lên các thụ thể ở tim với liều điều trị.

Viartril S

Tất cả các bệnh thoái hóa xương khớp, thoái khớp nguyên phát và thứ phát như thoái khớp gối, háng tay, cột sống, vai, viêm quanh khớp, loãng xương, gãy xương teo khớp, viêm khớp mãn và cấp.

Vasobral

Được đề nghị trong trị liệu điều chỉnh các triệu chứng suy giảm trí tuệ và bệnh lý của người lớn tuổi (các rối loạn sự chú ý, trí nhớ ...).  Điều trị hỗ trợ trong hiện tượng Raynaud.

Velcade

Phản ứng phụ. Thiếu máu, giảm tiểu cầu, giảm bạch cầu, giảm bạch cầu trung tính, giảm lympho bào, giảm toàn bộ huyết cầu, loạn nhịp tim, nhịp tim nhanh, rung nhĩ, hồi hộp, suy tim đợt kịch phát, phù phổi, nhìn mờ.

Vaccin bại liệt dạng tiêm

Vaccin bại liệt tạo miễn dịch bằng cách tiêm theo chỉ định đã chứng tỏ bảo vệ phòng chống bệnh bại liệt 100%. Có thể kéo dài bảo vệ suốt đời.

Ventolin Nebules

Người lớn và trẻ em: khởi đầu 2.5 mg. Có thể tăng 5 mg. Có thể dùng đến 4 lần/ngày. Điều trị tắc nghẽn đường dẫn khí nặng ở người lớn: liều có thể đến 40 mg/ngày dưới sự giám sát y khoa nghiêm ngặt tại bệnh viện.