- Trang chủ
- Thông tin
- Thông tin y học nước ngoài
- Đột quỵ (Stroke)
Đột quỵ (Stroke)
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Đột quỵ xảy ra khi lượng máu cung cấp cho một phần của não bộ đột nhiên bị chặn lại hoặc khi có một mạch máu trong não bộ bị vỡ khiến máu tràn vào những khoảng không xung quanh các tế bào não. Cũng giống như một người bị mất luồng máu cấp tới tim gây nên hiện tượng trụy tim (heart attack) thì người bị mất luồng máu lên não hoặc chảy máu bất ngờ trong não có thể được gọi là "não quỵ" (brain attack).
Liệt là một đặc điểm phổ biến của đột quỵ, thông thường xảy ra với một bên của cơ thể (liệt nửa người). Liệt hoặc suy kiệt có thể chỉ ảnh hưởng tới khuôn mặt, một tay hoặc một chân hay có thể ảnh hưởng tới toàn bộ một nửa của cơ thể và khuôn mặt.
Một người bị đột quỵ ở bán cầu não trái sẽ bị liệt ở bên phải hay còn gọi là liệt nhẹ. Ngược lại, một người bị đột quỵ ở bán cầu não phải sẽ chịu những khuyết tật ở nửa trái của cơ thể.
Chứng thiếu máu cục bộ (Ischemia) là thuật ngữ được sử dụng để mô tả tình trạng thiếu khí ô-xy và các chất dinh dưỡng nuôi các tế bào não khi luồng máu thiếu. Cuối cùng thiếu máu cục bộ sẽ dẫn tới hiện tượng nhồi máu, các tế bào não bị chết và sau đó bị thay thế bằng một hốc chứa đầy dịch trong phần não bị tổn thương.
Khi dòng máu chảy về não bị ngắt quãng, một số tế bào não bị chết ngay lập tức; những tế bào não còn lại tiếp tục có nguy cơ bị chết. Những tế nào não bị tổn thương có thể được cứu chữa nếu có sự can thiệp sớm bằng thuốc. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng có thể khôi phục dòng máu chảy tới các tế bào này bằng các tiêm chất hoạt hóa mô plasminogen có chất chống máu cục (t-PA) trong vòng 3 giờ kể từ lúc bị đột quỵ. Nhiều loại thuốc thần kinh đang được kiểm nghiệm để phòng ngừa chuỗi phá hủy sau cơn đột quỵ đầu tiên.
Đột quỵ vẫn thường được xem là không thể phòng ngừa và điều trị. Cùng với tiền định này là một nhận thức sai lầm khi cho rằng đột quỵ chỉ xảy ra đối với người cao tuổi và do đó không phải là một điều đáng quan tâm.
Từ những hiểu biết sai lệch này mà bệnh nhân bị đột quỵ thường hay chờ đợi hơn 12 giờ trước khi được đưa vào phòng cấp cứu. Giới chăm sóc sức khỏe có quan điểm "đợi và theo dõi" thay vì coi đột quỵ là một trường hợp cấp cứu.
Bằng cách sử dụng thuật ngữ "não quỵ", đột quỵ có một tên gọi mô tả, định danh. Phản ứng thích hợp trước một ca não quỵ là một hành động khẩn cấp, của cả người bị não quỵ lẫn giới chăm sóc y tế. Giáo dục cộng đồng để họ hiểu đột quỵ là não quỵ và nhanh chóng cấp cứu là một vấn đề then chốt bởi mỗi phút lãng phí từ khi mới xuất hiện triệu chứng tới lúc được cấp cứu sẽ khép dần cánh cửa cơ hội được cứu chữa.
Các triệu chứng
Những triệu chứng của đột quỵ rất dễ phát hiện: đột nhiên bị tê liệt hoặc đuối sức, đặc biệt là ở một nửa cơ thể; đột nhiên khó phát âm hoặc đầu óc lẫn lộn không hiểu được người khác nói; đột nhiên một mắt nhìn không rõ; đột nhiên đi loạng choạng, chóng mặt hoặc mất thăng bằng hoặc không phối hợp được hoạt động; hoặc đột nhiên đau đầu trầm trọng mà không rõ nguyên nhân. Đột quỵ thường có thể phân biệt với các nguyên nhân gây chóng mặt hoặc đau đầu khác. Những triệu chứng này có thể cho thấy đã xảy ra đột quỵ và cần có tác động y tế ngay lập tức.
Các yếu tố rủi ro
Những yếu tố rủi ro quan trọng nhất dẫn tới đột quỵ là cao huyết áp, bệnh tim, tiểu đường và hút thuốc. Những nguy cơ khác gồm có nghiện rượu nặng, nồng độ cholesterol trong máu cao, sử dụng thuốc cấm, những đặc điểm về gen hoặc bẩm sinh, những dị thường nhất định trong hệ mạch.
Phục hồi sớm
Bằng cách nào đó mà người ta vẫn chưa xác định được rõ, não bộ có khả năng đền bù đối với tổn thương do đột quỵ hoặc não quỵ gây ra. Một số tế bào não có thể chỉ bị tổn thương tạm thời, chứ không bị tiêu diệt và có thể phục hồi chức năng. Trong một số trường hợp, não bộ có thể tự tổ chức lại hoạt động chức năng của mình. Đôi khi, một vùng của não bộ đảm nhận chức năng cho một vùng bị đột quỵ làm tổn thương. Những người chống chịu được qua cơn đột quỵ đôi lúc có cảm thấy những phục hồi rõ ràng ngoài dự tính mà không thể lý giải được.
Những hướng dẫn chung về phục hồi cho thấy
10 phần trăm những người qua được cơn đột quỵ cần như phục hồi hoàn toàn.
25 phần trăm phục hồi và có những suy yếu nhỏ.
40 phần trăm trải qua những suy yếu từ trung bình tới nghiêm trọng và cần chăm sóc đặc biệt.
10 phần trăm cần chăm sóc tại cơ sở điều dưỡng hoặc các cơ sở chăm sóc dài hạn khác.
15 phần trăm tử vong ngay sau khi bị đột quỵ.
Phục hồi chức năng
Quá trình phục hồi chức năng bắt đầu trong bệnh viện sau cơn đột quỵ càng sớm càng tốt. Đối với những bệnh nhân có tình trạng ổn định, quá trình phục hồi chức năng có thể bắt đầu trong vòng hai ngày sau khi xảy ra đột quỵ và nên tiếp tục nếu cần sau khi xuất viện. Những lựa chọn phục hồi chức năng có thể gồm có bộ phận phục hồi chức năng trong bệnh viện, cơ sở chăm sóc hơi cấp, bệnh viện phục hồi chức năng, liệu pháp điều trị tại nhà, chăm sóc ngoại trú hoặc chăm sóc dài hạn trong một cơ sở điều dưỡng.
Mục tiêu của phục hồi chức năng là nhằm cải thiện chức năng để người qua cơn đột quỵ có thể trở nên càng tự lập càng tốt. Mục tiêu này phải được thực hiện theo hình thức tôn trọng phẩm cách đồng thời khuyến khích người qua cơn đột quỵ học lại những kỹ năng cơ bản mà cơn đột quỵ có thể đã cướp đi của họ – như ăn uống, mặc quần áo và đi bộ.
Cho dù đột quỵ là một căn bệnh của não bộ, nhưng nó có thể ảnh hưởng tới toàn bộ cơ thể. Một số tình trạng khuyết tật khác có thể xuất hiện do đột quy gồm có liệt, khuyết thiếu trong nhận thức, những vấn đề về phát âm, khó khăn về cảm xúc, những vấn đề trong cuộc sống hàng ngày và đau đớn.
Đột quỵ có thể gây ra những vấn đề về tư duy, nhận thức, khả năng tập trung, học tập, đánh giá hoặc trí nhớ. Một bệnh nhân bị đột quỵ có thể không có khả năng nhận thức được những gì diễn ra xung quanh hoặc không thể nhận thức được những khuyết tật về thần kinh do cơn đột quỵ gây ra.
Những nạn nhân của đột quỵ thường gặp vấn đề về tiếp thu hoặc hình thành ngôn ngữ. Những vấn đề về ngôn ngữ thường xảy ra do tổn thương đối với thùy thái dương trái và thùy đỉnh của não bộ.
Đột quỵ có thể dẫn tới những vấn đề về cảm xúc. Những bệnh nhân bị đột quỵ có thể gặp khó khăn trong việc điều khiển cảm xúc hoặc có thể biểu thị cảm xúc không phù hợp trong những trường hợp nhất định. Một khuyết tật phổ biến xảy ra đối với nhiều bệnh nhân bị đột quỵ là hiện tượng trầm cảm, một trạng thái buồn hơn mức bình thường sau cơn đột quỵ.
Những bệnh nhân đột quỵ có thể bị đau đớn, cảm giác tê liệt khó chịu hoặc có nhiều cảm giác lạ sau cơn đột quỵ. Những cảm giác này có thể do nhiều yếu tố gây ra trong đó có tổn thương ở nhiều vùng cảm giác của não bộ, khớp bị cứng hoặc chân tay bị tê liệt.
Theo số liệu từ Hiệp Hội Đột Quỵ Quốc Gia (National Stroke Association), tổng chi phí mà Hoa Kỳ dành cho đột quỵ là khoảng $43 triệu mỗi năm trong đó chí phí trực tiếp dành cho chăm sóc y tế và trị liệu dự tính khoảng $28 triệu mỗi năm.
Sources: National Stroke Association (National Stroke Association), the National Institute of neurological Disorders and Stroke (National Institute of Neurological Disorders and Stroke).
Bài viết cùng chuyên mục
Giảm đau lưng mãn tính: loại kích thích thần kinh mới
Ý tưởng kích thích hạch rễ hấp dẫn bởi vì, không giống như kích thích tủy sống, nó chỉ nhắm vào các dây thần kinh bị ảnh hưởng, một lý do khác là nó đòi hỏi mức dòng điện thấp hơn
Sử dụng thuốc đông y cùng thuốc tây y: nhấn mạnh sự nguy hiểm
Nghiên cứu này cho thấy rằng, ngay cả các loại thảo mộc, và gia vị thường, như trà xanh và nghệ, có thể gây ra vấn đề khi kết hợp với một số loại thuốc
Mối liên hệ giữa trào ngược axit và ho
Trong khi một liên kết tồn tại giữa ho mãn tính và GERD, nó không có nghĩa là GERD luôn là nguyên nhân của ho, ho mãn tính là một vấn đề phổ biến
Giữ xương chắc khỏe: phòng ngừa loãng xương
Mất xương thường bắt đầu muộn hơn đối với nam giới, thường là vào cuối những năm 50, và tiến triển chậm hơn so với phụ nữ
Vắc xin Covid-19: biến chứng viêm cơ tim sau khi tiêm chủng
Trong một loạt nghiên cứu, bảy nam giới từ 14 đến 19 tuổi bị đau ngực trong vòng bốn ngày sau khi họ dùng liều thứ hai BNTb162b và có ST chênh lên trên điện tâm đồ và nồng độ troponin tăng cao.
Bệnh thận mãn tính: các giai đoạn của bệnh
Khi bác sĩ biết giai đoạn nào của bệnh thận, có thể cung cấp sự chăm sóc tốt nhất, vì mỗi giai đoạn yêu cầu các xét nghiệm và phương pháp điều trị khác nhau
Lựa chọn thuốc mới điều trị bệnh tiểu đường
Khi bị tiểu đường, cơ thể gặp khó khăn trong việc sử dụng insulin. Insulin là một chất được sản xuất bởi tuyến tụy giúp cơ thể bạn sử dụng glucose (đường) từ thực phẩm ăn.
Statin: có thể không được hưởng lợi ở người trên 75 tuổi không bị tiểu đường
Những người mắc bệnh tiểu đường thấy giảm nguy cơ đau tim, đột quỵ hoặc tử vong, những người không mắc bệnh tiểu đường không có lợi ích gì
Lòng tự trọng: bốn cách để tăng cường
Một số phương pháp đã được đề xuất, và các chương trình đào tạo đang được phát triển, để giúp mọi người khám phá và trau dồi lòng tự từ bi của chính họ
Ngăn ngừa đột quỵ: bảy điều có thể làm
Phòng ngừa đột quỵ có thể bắt đầu ngày hôm nay, bảo vệ bản thân và tránh đột quỵ, bất kể tuổi tác hoặc lịch sử gia đình
Dùng paracetamol trong thai kỳ: dẫn đến các vấn đề về hành vi của trẻ
Sử dụng paracetamol trong khi mang thai, có liên quan đến việc tăng điểm số nghiên cứu, chủ yếu là xung quanh sự hiếu động hoặc sự chú ý
Giữa các lần phụ nữ mang thai: nên ít nhất một năm
Không thể chứng minh rằng, một khoảng thời gian mang thai ngắn hơn, đã trực tiếp gây ra các biến chứng được tìm thấy trong nghiên cứu
Nguyên nhân gây ra chảy máu nốt ruồi?
Hầu hết nốt ruồi là vô hại, nhưng mọi người nên kiểm tra chúng khi chúng thay đổi, chẳng hạn như chảy máu, có thể chỉ ra khối u ác tính
Vắc xin Covid-19 AstraZeneca: Canada ngừng sử dụng cho những người dưới 55 tuổi
Ủy ban Cố vấn Quốc gia về Tiêm chủng (NACI) của Canada đã khuyến cáo rằng không sử dụng vắc-xin AstraZeneca Covid-19 cho những người dưới 55 tuổi.
Thuốc huyết áp: mọi thứ cần biết
Bác sĩ kê đơn nào sẽ tùy thuộc vào nguyên nhân cơ bản của bệnh tăng huyết áp, cũng như tình trạng hiện tại của họ và các loại thuốc thông thường khác
Vi rút Corona 2019 mới: quản lý các trường hợp được xác nhận nhiễm
Các trường hợp được xác nhận báo cáo là 2019 nCoV, tiến hành sớm quản lý trong đợt bùng phát, chăm sóc và điều trị là rất quan trọng
Phụ nữ eo hình bánh mỳ: có thể tăng nguy cơ đau tim
Vòng eo và nguy cơ đau tim: Nghiên cứu cho thấy mối liên hệ mạnh mẽ giữa việc tăng kích thước vòng eo, đặc biệt là tỷ lệ eo/hông lớn, và nguy cơ mắc bệnh đau tim, đặc biệt ở phụ nữ.
Xét nghiệm cholesterol: Sử dụng, những gì mong đợi và kết quả
Nếu có quá nhiều cholesterol trong máu, việc điều trị có thể bắt đầu làm giảm mức cholesterol và giảm nguy cơ mắc bệnh tim
Thuốc điều trị huyết áp tăng nguy cơ ung thư da
Các nhà nghiên cứu đã nhắc tới nghiên cứu của họ bởi thực tế là Hydrochlorothiazide có liên quan với tăng nguy cơ của ung thư môi trong quá khứ
Rụng trứng: tính ngày có thể hoặc không thể mang thai
Sau khi trứng rụng hoàn toàn có thể có thai. Khi một người quan hệ tình dục trong vòng 12–24 giờ sau khi trứng trưởng thành phóng thích, thì khả năng thụ thai cao.
Virus corona (2019-nCoV): hướng dẫn lâm sàng tạm thời
WHO đang ra mắt nền tảng dữ liệu lâm sàng toàn cầu 2019 nCoV, WHO đã công bố hướng dẫn chăm sóc lâm sàng tạm thời cho bệnh viện
Cholesterol “tốt” gắn liền với nguy cơ mắc bệnh truyền nhiễm cao hơn
Đáng ngạc nhiên là chúng tôi nhận thấy rằng những người có cholesterol HDL thấp và cao có nguy cơ nhập viện cao với một bệnh truyền nhiễm
Tiêm steroid để điều trị đau khớp có thể làm tổn thương khớp
Nghiên cứu đã chứng minh, một số người bị tiêm khớp, sẽ bị tổn thương khớp với tốc độ nhanh hơn, có thể liên quan đến việc tiêm
Chứng cuồng loạn hysteria ở phụ nữ: những tranh cãi thế kỷ
Cuồng loạn hysteria bắt nguồn từ Hy Lạp cổ đại. Hippocrates và Plato nói về womb, hystera, mà họ cho rằng có xu hướng quanh cơ thể phụ nữ, gây ra một loạt các tình trạng thể chất và tinh thần.
Glucocorticosteroid ở bệnh nhân Covid-19: quản lý đường huyết ở những người bị và không bị tiểu đường
Rối loạn chuyển hóa glucose do liệu pháp glucocorticoid liều cao, COVID-19 gây ra kháng insulin và suy giảm sản xuất insulin liên quan đến COVID-19 có thể dẫn đến tăng đường huyết đáng kể, tăng áp lực thẩm thấu và toan ceton.