Bệnh xơ cứng teo cơ cột bên (ALS, Amyotrophic lateral sclerosis)

2012-11-19 08:16 PM
Cho đến thời điểm này, các nhà khoa học vẫn đang làm việc với các yếu tố và những phương thức mới để đưa ra được các liệu pháp điều trị.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Bệnh xơ cứng teo cơ côth bên: Bệnh ALS (có tên gọi khác là bệnh Lou Gehrig) xảy ra do một đợt biến cố tế bào làm chết các nơron (được gọi là cơ chế huỷ diệt từng bước - apotosis). Chương trình nghiên cứu đang hé mở một vài manh mối, trong đó có vai trò của lượng glutamate vượt mức (một hóa chất cần thiết để truyền dẫn các tín hiệu thần kinh), mitochondria hỏng (một phần của tế bào có nhiệm vụ cung cấp năng lượng), các vấn đề chuyển vận tế bào thần kinh (những tín hiệu và các yếu tố tăng trưởng được các protein mang theo) và vai trò tiềm ẩn của vi-rút. Sau đây là ví dụ về công việc đã được thực hiện để điều trị bệnh xơ cứng teo cơ cột bên:

Việc thay thế những tế bào thần kinh bị hư hại là một ý tưởng táo bạo nhưng hết sức triển vọng mặc dù người ta chưa xác định được rằng liệu các tế bào mới có kháng cự được nguồn tác hại ban đầu đã gây nên bệnh xơ cứng teo cơ cột bên hay không. Dù vẫn chưa rõ ràng nhưng trên thực tế những tế bào gốc đó có thể đảm nhận được nhiệm vụ xác định ra những nơron vận động và hình thành các điểm tiếp xúc phục hồi chức năng với cơ. Điều này có thể xảy ra vì các tế bào gốc đóng vai trò như là những phương tiện vận chuyển cho các yếu tố dinh dưỡng thần kinh, vốn là những protein có trong bộ não và cơ với nhiệm vụ hỗ trợ cho sự tăng trưởng và sinh tồn của các nơron. Mãi cho đến khi các cuộc thí nghiệm quy mô lớn về bốn yếu tố không thể cải thiện được những triệu chứng của bệnh xơ cứng teo cơ cột bên thì lĩnh vực này đã trở thành một nguồn hy vọng chính trong giới nghiên cứu. Cho đến thời điểm này, các nhà khoa học vẫn đang làm việc với các yếu tố và những phương thức mới để đưa ra được các liệu pháp điều trị.

Ví dụ, một cuộc nghiên cứu lâm sàng về yếu tố Phát triển 1 kiểu Insulin (IGF-1, hay myotrophin) đã bắt đầu được thực hiện vào năm 2003 để xem liệu thuốc có làm chậm diễn tiến của hiện tượng yếu đi ở chứng bệnh xơ cứng teo cơ cột bên hay không. IGF-1 cần thiết cho sự phát triển bình thường của hệ thần kinh và dường như nó có chức năng bảo vệ các nơron thần kinh trong các mẫu động vật. Người ta cho rằng nó cản trở các đường chết tự nhiên của tế bào và thúc đẩy quá trình phục hồi phân bổ dây thần kinh của cơ và quá trình tăng trưởng và tái sinh của axon.

Máu dây rốn/các tế bào gốc: Nghiên cứu trên động vật đưa ra giả thuyết về vai trò lâm sàng của máu dây rốn/tế bào gốc trong tĩnh mạch và trên thực tế ở một số phòng khám người ta đã chuẩn bị sẵn những tế bào này cho những người mắc bệnh xơ cứng teo cơ cột bên. Hiện tại vẫn chưa có một cuộc thử nghiệm cuối cùng, đảm bảo sự an toàn lâu dài hay có những kết quả như mong muốn. Một số bệnh nhân đã cho Hiệp hội xơ cứng teo cơ cột bên biết rằng thể trạng và chức năng của họ đã được cải thiện sau khi họ được cấy các tế bào này. Cánh cửa đã hé mở cho nhiều cuộc nghiên cứu sâu hơn.

Hỗn hợp thuốc: các chương trình nghiên cứu về xơ cứng teo cơ cột bên trên chuột gần đây đã cho thấy những lợi ích đáng kinh ngạc qua việc sử dụng một hỗn hợp thuốc, bao gồm riluzole (thuốc duy nhất cho tới thời điểm này được FDA chấp thuận cho sử dụng để điều trị bệnh xơ cứng teo cơ cột bên), nimodipine (loại thuốc chặn kênh can-xi được sử dụng trong việc điều trị chứng bệnh đột quỵ cấp tính và đau nửa đầu) và minocycline (một thuốc kháng sinh có thể ngăn chặn tình trạng viêm tấy). Dường như khi các hợp chất này phối hợp với nhau thì chúng làm giảm quá trình chết tự nhiên của tế bào, ngăn ngừa tình trạng mất tế bào thần kinh và làm giảm viêm tấy. Các nhà khoa học đang nghiên cứu để tìm ra những hỗn hợp thuốc khác giúp đảm bảo sự sinh tồn cho các tế bào thần kinh, bao gồm các chất ức chế proteaza có đặc tính ngăn ngừa quá trình chết tự nhiên của tế bào và các thuốc chống vi-rút khác. Những người mắc HIV và xơ cứng teo cơ cột bên cho biết sức khỏe của họ có cải thiện sau khi dùng "Hỗn hợp thuốc AIDSl" với tác dụng tìm diệt vi-rút. Điều này đặt ra giả thuyết là cơ chế hoạt động của vi-rút có thể có liên quan đến một số dạng của bệnh xơ cứng teo cơ cột bên.

Các thuốc đã được FDA chấp thuận để điều trị những chứng bệnh khác hiện đang được thử nghiệm để điều trị các triệu chứng của bệnh xơ cứng teo cơ cột bên, bao gồm buspar (điều trị chứng lo âu) và Celebrex (điều trị bệnh viêm khớp). Cả hai loại thuốc đã cho thấy tác dụng tích cực đối với tuổi thọ của những con chuột bị mắc các chứng bệnh tương tự như xơ cứng teo cơ cột bên. Thuốc điều trị bệnh ung thư vú tamoxifen (Nolvadex) đã cho thấy tác dụng có lợi qua các cuộc thử nghiệm trên chuột; các cuộc nghiên cứu lâm sàng vẫn đang được thực hiện.

Một loại thuốc có tên là AVP-923 (dextromethorphan/loại thuốc làm chậm nhịp tim, dùng để kiểm soát nhịp tim tăng hay bất thường) đang được thử nghiệm để điều trị chứng tinh thần bất ổn (cười và khóc không chủ ý) ở những người mắc bệnh xơ cứng teo cơ cột bên. Các cuộc thử nghiệm lâm sàng cũng đang tiến hành đối với creatine, một chất hóa học được sinh ra tự nhiên tham gia vào quá trình trao đổi chất trong cơ có thể giúp những người mắc xơ cứng teo cơ cột bên.

Bài viết cùng chuyên mục

Lông dương vật: tại sao nó mọc ra và những gì có thể làm về nó

Lông mu phát triển trong giai đoạn dậy thì, và vì lý do chính đáng, có lông xung quanh bộ phận sinh dục thực sự có lợi cho sức khỏe tổng thể

Điều trị dây thần kinh bị chèn ép: các bước tiến hành

Những người có dây thần kinh bị chèn ép có thể có triển vọng tích cực để phục hồi, kết quả là, điều trị thần kinh bị chèn ép hầu như luôn luôn bắt đầu với các liệu pháp bảo tồn

Hình thành cục máu đông sau Covid-19: đáp ứng miễn dịch kéo dài

Theo nghiên cứu mới, những người sống sót sau COVID-19, đặc biệt là những người bị bệnh tim hoặc tiểu đường, có thể tăng nguy cơ đông máu hoặc đột quỵ do phản ứng miễn dịch kéo dài.

Ngay cả ô nhiễm không khí thấp cũng có thể gây ra các vấn đề về tim nghiêm trọng

Nghiên cứu cho thấy một mối tương quan chặt chẽ giữa việc sống bên cạnh một con đường đông đúc, do đó tiếp xúc với nitơ dioxit và giãn buồng tâm thất trái

Trầm cảm: cảm thấy như thế nào?

Mặc dù nhiều người bị trầm cảm cảm thấy buồn bã, nhưng nó cảm thấy nghiêm trọng hơn nhiều so với những cảm xúc đến và đi theo những sự kiện trong cuộc sống

Virus corona mới (2019-nCoV): cách lan truyền

Mức độ dịch bệnh sẽ phụ thuộc vào một số yếu tố, bao gồm cả khi những người nhiễm bệnh trở nên truyền nhiễm, họ có thể lây bệnh, virus có thể tồn tại bên ngoài con người

Covid 19: hệ thống miễn dịch có khả năng bảo vệ lâu dài sau khi phục hồi

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng những kháng thể được tạo ra bởi các tế bào miễn dịch đã không ngừng phát triển, dường như là do tiếp tục tiếp xúc với tàn dư của virus ẩn trong mô ruột.

Vi rút corona mới 2019: hướng dẫn xác định, cách ly, thông báo

Vào ngày 31 tháng 12 năm 2019, WHO đã được cảnh báo về một số trường hợp viêm phổi, virus này không phù hợp với bất kỳ loại virus nào được biết đến

Mỉm cười không nhất thiết có nghĩa là hạnh phúc

Người ta tin rằng mỉm cười có nghĩa là một người hạnh phúc, và nó thường xảy ra khi họ đang tham gia với một người hoặc một nhóm người khác

Tác dụng phụ của vắc xin Covid-19: phải làm gì khi gặp phải

Bất kỳ ai lo lắng về tác dụng phụ của việc tiêm chủng có thể tự hỏi họ nên dùng thuốc không kê đơn trước khi chủng ngừa, để tránh bất kỳ tác dụng phụ nào trước khi chúng xảy ra.

Bệnh tiểu đường tuýp 2 và tuổi thọ

Bệnh tiểu đường tuýp 2 được cho là có ít ảnh hưởng đến tuổi thọ hơn tuýp 1 vì người ta thường phát triển tình trạng này sau này trong cuộc sống

Tật nứt đốt sống (Spina Bifida)

Hai loại khác của nứt đốt sống là thoát vị màng não và thoát vị tủy-màng tủy được hiểu chung là nứt đốt sống hiện và cứ khoảng 1000 đứa trẻ ra đời thì có một bé mắc khuyết tật này.

Gen thực sự quyết định tuổi thọ như thế nào?

Các nhà nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu từ tổ tiên và tập trung vào di truyền, để đo lường mức độ cụ thể của gen giải thích sự khác biệt về đặc điểm cá nhân của người

Kích thước vòng eo: dự đoán nguy cơ mất trí nhớ?

Những người có chu vi vòng eo, bằng hoặc cao hơn 90 cm đối với nam, và 85 cm đối với nữ, có nguy cơ mắc chứng mất trí nhớ cao hơn

Rối loạn tâm thần sau đột quỵ: chẩn đoán và can thiệp

Rối loạn tâm thần sau đột quỵ, với ảo tưởng, và với ảo giác, có thể khó phân biệt rõ ràng, với chứng trầm cảm sau đột quỵ, và chứng mất trí nhớ sau đột quỵ

Chảy nước mũi: nguyên nhân, phương pháp điều trị và phòng ngừa

Mặc dù nó gây phiền nhiễu, nhưng việc sổ mũi là phổ biến và thường tự biến mất, trong một số trường hợp, đó là dấu hiệu của một vấn đề sức khỏe tiềm ẩn

Quái thảo mềm: giã đắp vào vết thương cho chóng liền sẹo

Công dụng, chỉ định và phối hợp, đồng bào địa phương Sapa dùng lá giã đắp vào vết thương cho chóng liền sẹo

Tại sao nên nói chuyện với con chó

Câu nói nhịp nhàng phổ biến trong tương tác của con người với chó trong văn hóa phương Tây, nhưng không có khảng định nào về việc liệu nó có mang lại lợi ích

Đặc điểm lâm sàng Covid 19

Khoảng 20 đến 30 phần trăm bệnh nhân nhập viện, với COVID 19, và viêm phổi, phải được chăm sóc đặc biệt để hỗ trợ hô hấp.

Mọc răng có khiến bé bị nôn không?

Phân tích của nghiên cứu từ tám quốc gia báo cáo rằng, mọc răng có thể làm cho trẻ cảm thấy khó chịu, nhưng nó không có khả năng làm cho chúng nôn mửa

Tắm nước nóng: giảm viêm và cải thiện chuyển hóa đường

Gần đây, các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu xem liệu ngâm mình trong bồn tắm nước nóng có ảnh hưởng đến rối loạn chuyển hóa như bệnh tiểu đường hay không

Tại sao tình dục là thú vui?

Một nghiên cứu cho thấy rằng não có thể là cơ quan sinh dục quan trọng nhất, phát hiện ra rằng cực khoái là trạng thái nhận thức cảm giác được nâng cao có thể kích hoạt trạng thái giống như xuất thần trong não.

Dịch âm đạo khi mang thai: mầu sắc và ý nghĩa

Dịch tiết âm đạo, một số thay đổi về màu sắc cũng là bình thường, trong khi những thay đổi khác có thể chỉ ra nhiễm trùng hoặc vấn đề khác

Chế độ ăn uống khi mang thai: những điều cần biết

Một chế độ ăn uống lành mạnh cho thai kỳ nên giống như chế độ ăn uống lành mạnh thông thường, chỉ với 340 đến 450 calo bổ sung mỗi ngày

Giữa các lần phụ nữ mang thai: nên ít nhất một năm

Không thể chứng minh rằng, một khoảng thời gian mang thai ngắn hơn, đã trực tiếp gây ra các biến chứng được tìm thấy trong nghiên cứu