Bệnh rỗng tủy sống, Cứng cột sống (Syringomyelia, Tethered Cord)

2012-11-19 08:13 PM
Tạo ảnh cộng hưởng từ Magnetic resonance imaging - MRI có thể dễ dàng phát hiện ra các u nang trong tủy sống, trừ khi tại đó có các thanh chốt, miếng mỏng hoặc các mảnh đạn.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Bệnh rỗng tủy sống (Syringomyelia) và cứng cột sống (Tethered Cord) hậu chấn thương có thể xảy ra sau khi người bệnh bị tổn thương tủy sống. Bệnh có thể xuất hiện sau hai tháng hoặc sau nhiều chục năm kể từ khi tổn thương xảy ra. Hậu quả có thể rất nguy hại, gây ra nhiều mức độ tàn tật mới sau khi người bệnh đã phục hồi tốt một thời gian dài. Các triệu chứng lâm sàng của bệnh rỗng tủy sống và cứng cột sống giống nhau và có thể bao gồm giai đoạn thoái hóa diễn tiến của tủy sống, dần dần mất cảm giác hoặc sức khỏe, ra mồ hôi nhiều, co thắt, đau nhức và tăng phản xạ tự phát (AD).

Bệnh rỗng tủy sống hậu chấn thương (syringomyelia, phát âm là sear-IN-go-my-EE-lia) là một u nang hoặc khoang dịch lỏng hình thành trong tủy sống. Hoạt động này có thể phát triển mở rộng theo thời gian, trải dài xuống hai hoặc nhiều đoạn cột sống từ mức tổn thương SCI.

Tủy sống bị cứng là một bệnh lý xảy ra khi mô sẹo hình thành và cột, hay giữ tủy sống vào màng cứng, màng mô mềm bao quanh tủy sống. Mô sẹo này ngăn cản dòng chảy bình thường của dịch tủy vòng quanh tủy sống và cản trở cử động bình thường của tủy sống trong màng. Tình trạng cột cứng gây nên sự hình thành của u nang. Dây sống bị cột lại có thể xảy ra dù không có biểu hiện của bệnh rỗng tủy sống, nhưng sự hình thành u nang sau chấn thương diễn ra phải do một số mức độ cột sống bị cột lại.

Tạo ảnh cộng hưởng từ (Magnetic resonance imaging - MRI) có thể dễ dàng phát hiện ra các u nang trong tủy sống, trừ khi tại đó có các thanh chốt, miếng mỏng hoặc các mảnh đạn.

Người ta điều trị các dây sống bị cột cứng và bệnh rỗng tủy sống hậu chấn thương bằng phương pháp phẫu thuật. Việc gỡ tình trạng cột cứng cần phải qua quá trình phẫu thuật tinh vi để tách mô sẹo xung quanh tủy sống nhằm khôi phục lại dòng chảy của dịch tủy và cử động của tủy sống. Ngoài ra người ta đặt một mô ghép nhỏ ở điểm bị cột để củng cố khoang màng cứng và làm giảm nguy cơ hình thành lại sẹo. Nếu có u nang xuất hiện, người ta sẽ đặt vào trong khoang một ống hay ống dẫn để dẫn lưu dịch từ u nang. Phương pháp phẫu thuật thường nâng cao sức khỏe và làm giảm đau nhức; thường thì phẫu thuật này không khôi phục lại được chức năng cảm giác đã mất.

Trong các cuộc thí nghiệm được thực hiện ở Đại học Florida, những người có các u nang trong tủy sống được điều trị bằng cách tiêm vào người các mô thai. Không hứa hẹn rằng kỹ thuật này sẽ được áp dụng điều trị trong thời gian tới nhưng mô đã phát triển và lấp đầy các khoang trống giúp ngăn ngừa tình trạng mất thêm chức năng.

Bệnh rỗng tủy sống cũng xảy ra ở những người có bất thường bẩm sinh ở bộ não được gọi là tật Chiari – trong quá trình phát triển của bào thai, phần dưới của não nhô từ phía sau đầu vào phần cổ của ống tủy sống. Các triệu chứng thường gặp bao gồm ói mửa, yếu cơ ở đầu và mặt, khó nuốt và nhiều mức độ kém trí tuệ khác nhau. Tình trạng liệt các cánh tay và chân cũng có thể xảy ra. Người lớn và thanh thiếu niên mắc tật Chiari trước đây chưa biểu hiện triệu chứng gì có thể có biểu hiện của những suy yếu diễn tiến, ví dụ như những cử động không chủ ý, nhanh, mắt cụp xuống. Những triệu chứng khác gặp phải có thể là chóng mặt, đau đầu, nhìn một thành hai, điếc, suy yếu khả năng phối hợp cử động và các giai đoạn đau cấp tính ở và xung quanh mắt.

Bệnh rỗng tủy sống cũng có thể liên quan đến tật nứt đốt sống u tủy sống, viêm màng nhện và rỗng tủy sống tự phát (không rõ nguyên nhân). MRI đã làm gia tăng đáng kể số lần chẩn đoán ở những giai đoạn đầu của bệnh rỗng tủy sống. Mặc dù các dấu hiệu của tình trạng rối loạn có xu hướng tiến triển chậm nhưng thường xuất hiện đột ngột các cơn ho hoặc tình trạng mệt mỏi.

Phẫu thuật mang lại tình trạng ổn định hoặc mức độ cải thiện vừa phải ở những triệu chứng xảy ra ở phần lớn những người mắc bệnh. Điều trị chậm trễ có thể dẫn đến tình trạng tổn thương tủy sống không thể đẩy lùi được. Sau phẫu thuật nếu bệnh rỗng tủy sống vẫn tái phát, người bệnh cần phải được thực hiện phẫu thuật thêm; có thể những cuộc phẫu thuật này không mang lại hiệu quả trong một thời gian dài. Có tới gần một nửa số người được điều trị bệnh rỗng tủy sống thấy xuất hiện lại các triệu chứng trong vòng năm năm.

Source: National Institute of neurological Disorders and Stroke (National Institute of Neurological Disorders and Stroke), Project Research Alliance of spinal disease Empty the United States (American Syringomyelia Alliance Project).

Bài viết cùng chuyên mục

Virus corona (2019-nCoV): hướng dẫn lâm sàng tạm thời

WHO đang ra mắt nền tảng dữ liệu lâm sàng toàn cầu 2019 nCoV, WHO đã công bố hướng dẫn chăm sóc lâm sàng tạm thời cho bệnh viện

Những điều cần biết về tình dục khi mang thai và sau sinh

Thông thường, đặc biệt là trong trường hợp rách đáy chậu, hoặc thủ thuật phẫu thuật, nó được khuyến khích chờ đợi cho đến sau khi 6 tuần sau sinh

Dịch truyền tĩnh mạch: Plasma tươi đông lạnh

Nguy cơ truyền mầm bệnh bằng huyết tương tươi đông lạnh cũng giống như đối với máu toàn phần

Nồng độ kháng thể IgG kháng SARS-CoV-2: sau tiêm chủng vắc xin Covid-19

Nồng độ kháng thể IgG kháng SARS-CoV-2 nằm trong khoảng từ 0 đến 38.400 BAU / mL được phân tích trong nghiên cứu. Nồng độ dưới 25,6 BAU / mL (kết quả âm tính) được tìm thấy ở những người không được tiêm chủng.

Chảy máu sau mãn kinh: hãy kiểm tra

Phân tích cho thấy hầu hết chảy máu sau mãn kinh là do tình trạng không ung thư, chẳng hạn như teo âm đạo, u xơ tử cung hoặc polyp

Hôi miệng: nguyên nhân và những điều cần biết

Mùi hôi miệng có thể là một vấn đề tạm thời hoặc một tình trạng mãn tính, ít nhất 50 phần trăm người trưởng thành đã mắc chứng hôi miệng trong đời

Rối loạn sử dụng rượu: có vấn đề khi uống?

Nhận thức rằng việc sử dụng rượu có thể gây ra vấn đề không dễ dàng xảy ra, uống rượu được xã hội chấp nhận ở hầu hết các nơi

Sars CoV-2: đáp ứng miễn dịch sau nhiễm trùng

Các kháng thể đặc hiệu với SARS-CoV-2 và các đáp ứng qua trung gian tế bào được tạo ra sau khi nhiễm trùng. Bằng chứng cho thấy một số phản ứng này có tính chất bảo vệ và có thể được phát hiện trong ít nhất một năm sau khi nhiễm bệnh.

Ngay cả một điếu thuốc mỗi ngày cũng là quá nhiều

Sử dụng dữ liệu từ 141 nghiên cứu khác nhau, liên quan đến hàng triệu người tham gia, các nhà nghiên cứu so sánh những người hút thuốc lá một, năm, hoặc 20 điếu thuốc mỗi ngày

Vắc xin Covid-19: trả lời cho các câu hỏi thường gặp

Có rất nhiều lý do có thể giải thích tại sao một số người ít quan tâm đến việc xếp hàng tiêm chủng của họ, bao gồm các câu hỏi kéo dài về độ an toàn, tác dụng phụ và mức độ hoạt động của vắc xin đối với các biến thể vi rút mới.

Covid-19: thông khí cơ học cho bệnh nhân trong hồi sức cấp cứu

Cài đặt máy thở ban đầu với PEEP thấp hơn và thể tích lưu thông cao hơn so với ARDS nặng điển hình có thể được điều chỉnh với các mục tiêu như được chỉ định, với PEEP là 8 cm H2O.

Tại sao núm vú bị ngứa trong khi cho con bú?

Trong bài viết này, hãy tìm hiểu về nguyên nhân của núm vú bị ngứa trong khi cho con bú, cũng như làm thế nào để được cứu trợ

Vắc xin coronavirus Sputnik V: hiệu quả như thế nào?

Vắc xin COVID-19 của Nga, Sputnik V, đã được chấp thuận sử dụng ở hàng chục quốc gia và nó cũng đang được Cơ quan Dược phẩm Châu Âu xem xét. Nhưng vắc-xin vẫn còn gây tranh cãi.

Covid-19: vắc xin khi mang thai hoặc cho con bú

Mặc dù nguy cơ bị bệnh nặng nói chung là thấp, nhưng những người đang mang thai và sắp mang thai có nguy cơ bị bệnh nặng do Covid-19 tăng lên khi so sánh với những người không mang thai.

Fluoride trong kem đánh răng và nước: tốt hay xấu?

Fluoride là dạng ion hóa của nguyên tố flo, nó được phân phối rộng rãi trong tự nhiên, và hỗ trợ khoáng hóa xương và răng

Ngứa bộ phận sinh dục sau quan hệ: điều trị và phòng ngừa

Ngứa bộ phận sinh dục sau khi quan hệ, có thể là bình thường, và triệu chứng này thường không gây lo ngại, nếu nó biến mất trong thời gian ngắn

Người mẹ nhiễm COVID 19: nguy cơ rất thấp đối với trẻ sơ sinh

Để giảm nguy cơ truyền SARS-CoV-2 cho trẻ sơ sinh sau khi sinh, nhân viên bệnh viện đã thực hành giãn cách xã hội, đeo khẩu trang và đặt những bà mẹ dương tính với COVID trong phòng riêng.

Massage bà bầu: những điều cần biết

Được sự chấp thuận của bác sĩ trước khi đi massage là một ý tưởng hay, đặc biệt là nếu bị đau ở bắp chân hoặc các bộ phận khác của chân

Giống và khác nhau của Vắc xin DNA so với mRNA

Mặc dù vắc xin DNA và mRNA có một số điểm tương đồng, nhưng có một số điểm đáng chú ý sự khác biệt giữa các vắc xin di truyền này, vắc xin mRNA cung cấp vật liệu di truyền cho tế bào người để tổng hợp thành một hoặc nhiều protein vi rút hoặc vi khuẩn.

Biến thể Covid-19: làm cho vắc xin chỉ còn tác dụng bảo vệ và miễn dịch cộng đồng là không thể?

Biến thể Delta có khả năng truyền nhiễm nhiều hơn đáng kể có nghĩa là số lượng cao hơn sẽ phải được tiêm phòng đầy đủ để đạt được bất kỳ loại miễn dịch nào trên cộng đồng.

Chứng hưng cảm sau đột quỵ: chẩn đoán và can thiệp

Các triệu chứng hưng cảm, bao gồm tâm trạng bực bội, và hoặc cáu kỉnh, giảm nhu cầu ngủ, tăng hoạt động theo mục tiêu, thiếu thận trọng

Đa xơ cứng (Multiple Sclerosis)

Những nguyên lý về nguyên nhân gây nên bệnh đa xơ cứng gồm có vai trò của sinh vật kiểu vi-rút, sự bất thường của các gen có trách nhiệm kiểm soát hệ thống miễn dịch, hoặc là sự kết hợp của cả hai.

Tập thể dục để ngăn ngừa và giảm đau lưng

Người mới bắt đầu nên bắt đầu bằng cách giữ căng trong một thời gian ngắn và dần dần xây dựng để giữ mỗi lần căng cơ trong khoảng 30 giây

Covid-19: những đối tượng nên xét nghiệm

Những người được tiêm chủng đầy đủ vắc xin COVID-19 nên được nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe đánh giá và xét nghiệm COVID-19 nếu được chỉ định.

Cholesterol xấu (LDL): có xứng đáng với tên xấu của nó không?

Không chỉ thiếu bằng chứng về mối liên hệ nhân quả giữa LDL và bệnh tim, cách tiếp cận thống kê mà những người ủng hộ statin đã sử dụng để chứng minh lợi ích là lừa đảo