Thăm dò hình thái quang học thận

2011-10-26 03:37 PM

X quang thận là một loại phương pháp được áp dụng phổ biến nhất và có giá trị lớn để thăm dò hình thái của thận. Ngày nay có nhiều phương pháp khác nhau.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

X quang thận

X quang thận là một loại phương pháp được áp dụng phổ biến nhất và có giá trị lớn để thăm dò hình thái của thận. Ngày nay có nhiều phương pháp khác nhau. Có những phương pháp như chụp xinê thận bằng x quang, chụp tĩnh mạch thận, còn ít được áp dụng và ít có giá trị thực tế, nên không nói tới trong bài này.

Dưới đây là những phương pháp thông thường được áp dụng nhiều trong thực tế.

Chụp thận không có thuốc cản quang

Phương pháp: Thụt tháo trước cho sạch phân và hết hơi. Chụp phim thẳng, nghiêng, và chếch. Chụp tốt có thể rõ được hình thận với bờ của nó.

Kết quả:

Bình thường: Vị trí và khối lượng: thận nằm hai bên cột sống, cực trên ngang mỏm ngang L11, cực dưới ngang mỏm ngang TL3. thận phải thấp hơn thận trái một chút. Bờ trong của thận nằm sát bờ ngoài cơ thắt lưng chậu, chiều ngang khoảng 5cm (qua giữa thận).

Hình thái: Hình bầu dục, bờ ngoài lồi, bờ trong lõm.

Bệnh lý: Chụp thận theo phương pháp này có thể  thấy hai dấu hiệu bất thường:

Hình thận to hơn bình thường: cần chụp thận có thuốc cản quang để xác định chắc  chắn.

Sỏi: Chụp thận không có thuốc cản quang chủ yếu là để tìm sõi.

Sỏi Canxi photphat, canxi cacbonat, oxalat, amoni photphat, magie thấy được hình cản quang, còn sỏi axit uric, xantin, xystin, không thấy được vì không cản quang.

Sỏi có thể hình tròn, bầu dục, hình ngón tay đi găng, bờ tròn hoặc nhẵn nham nhở, có thể nhầm sỏi với:

 Mỏm ngang cột sống, cục vôi hoá, hạch bụng vôi hoá, điểm xương quá đậm của xương chậu.

Cục phân.

Sỏi túi mật: Chụp nghiêng,  sỏi túi mật ở trước cột sống, sỏi thận ở sau cột sống.

Chụp thận có thuốc cản quang qua đường tĩnh mạch

Mục đích:

Để thăm dò thay đổi hình thái của thận.

Để thăm dò chức năng thận.

Do đó giúp cho chẩn đoán xác định, chẩn đoán nguyên nhân.

Chỉ định:

Trong tất cả những trường hợp bệnh lý của thận, tiết niệu như: Sỏi thận, lao thận, ung thư thận, đái ra máu chưa rõ nguyên nhân, đái dưỡng chấp…

Để chẩn đoán phân biệt thận với một khối u ổ bụng.

Chống chỉ định:

Khi có suy thận: Trước khi chụp phải thử urê máu, nếu trên 1g/lít không được làm.

Khi có dị ứng với iot: trước khi làm cũng phải thử phản ứng với iot trước: Tiêm ½ - 1ml thuốc cản quang có iot  vào tĩnh mạch xem có phản ứng  gì không.

Khi đang đái ra máu đại thể.

Đang có suy tim.

Có thai hoặc  bụng có cổ trướng: Làm cản trở việc ép bụng trong khi chụp thận.

Phương pháp: Cần phải thụt tháo phân trước.

Giai đoạn đầu: Chụp 1 phim thường trước, sau dó tiêm thuốc cản quang rồi ép  bụng  để  ép một  niệu quản không cho nước tiểu có thuốc cản quang chảy ngay xuống bàng quang.

Giai đoạn ép: 2-3 phút  sau khi tiêm, chụp một phim rồi sau đó cứ 15 phút chụp một phim. Chụp 2-3 phim

Giai đoạn bỏ ép: Sau khi bỏ ép, chụp ngay một phim để xem niệu quản và bàng quang.

Kết quả:

Bình thường:

Hình thái, vị trí, khối lượng thận: Đã nói ở trên.

Thời gian hiện hình.

Thận: 5-6 phút đã thấy được hiện hình.

Đài và bể thận:  Phải sau 15 phút mới hiện hình rõ.

Hình đài và bể thận: Bể thận chia làm ba nhóm đài thận, mỗi đài thận to lại chia thành 2-3 đài nhỏ. Mỗi đài nhỏ tận cùng bằng hình càng cua. Hướng đi của các đài thận có khác nhau, nhóm trên đi lên trên, nhóm giữa đi ngang ra ngoài, nhóm   ưới đi chếch xuống dứoi và ra ngoài.

Niệu quản: Có chỗ phình, chỗ thắt do co bóp, nhưng không to, đường kính khoảng 0,5  đến 0,7 cm, niệu quản có thể bị cong.

Thay đổi bệnh lý: Chủ yếu là ở thân và đài bể thận với những biến đổi sau:

Về vị trí: Thận sa, chụp khi đứng và nhảy vài cái trước khi chụp, thận sẽ  nằm ở thấp hơn, có khi ở hố chậu.

Về hình thái và khối lượng:

- Thận nhỏ lại.

Trong trường hợp bệnh kéo dài như lao thận  vôi hoá (thận mátit), thận không hoạt động sẽ nhỏ lại.

Viêm thận mạn tính.

- Thận to ra:

Có những trường hợp sau đây làm thận to ra do ứ nước bể thận.

Thận to ra nhưng vẫn giữ được hình dáng của thận: Bể thận và đài thận giãn to, có khi thành hình tròn như những quả bóng.

Chỗ tắc, thuốc không qua được hoặc qua rất chậm, dưới chỗ tắc đó, đài bể thận và niệu quản vẫn bình thường.

Thời gian ngấm thuốc đầy đài và bể thận rất chậm có khi hàng giờ.

Nguyên nhân chủ yếu của ứ nước bể thận là sỏi. Bằng phương pháp chụp này có thể nhìn thấy được hình thái của sỏi, có khi tròn, có khi hình san hô, khối lượng có thể bằng hạt đỗ hoặc to hơn, có khi nằm ở đài thận, bể thận hoặc niệu đạo. Ngoài ra có các nguyên nhân khác như dây chằng hoặc  nhánh động mạch chủ vắt ngang quan niệu quản, có thai..

Lao thận.

Thời kỳ đầu: các gai thận bị tổn thương trước tiên, nên có hình càng cua không nhẵn mà bị gặm dang dở. Đài thận cũng có thể bị gặm mòn.

Thời kỳ tiến triển: Các đài thận bị tắc, bị cắt cụt hay ngược lại, bị giãn ra thành hình tròn hình ngón tay đeo găng.

Có khi thấy được các hình hang, nếu các hang này thông với đài thận hoặc bể thận.

U thận: Ngoài hình thận to, bờ lồi lõm làm thay đổi hình dáng của thận, đặc biệt ta thấy các thay đổi bể thận và đài thận.

Đài thận bị kéo dài ra, lệch hướng đi, bị cắt cụt hoặc bị giãn co. Có khi thấy hình đài thận bị đè bẹp thành hình “vết lõm ăn ngón tay” hoặc “hình khuyết như bờ cong dạ   ày”, … nếu là thận nhiều nang, thường thấy những thay đổi ở cả hai bên. Còn trong ung thư thận, những thay đổi đó  thường ở một bên thận.

Trường hợp khối u bể thận thì bể thận bị hẹp lại, nếu là khối u ác tính thì bờ nham nhở, nếu là khối lành tính thì bờ nhẵn. 50% trường hợp này là lành tính.

Đái dưỡng chấp: Ở đây hình thái và khối lượng thận, hệ thống các đài thận và bể thận không biến dạng. Nhưng từ các đài thận có chỗ thông với hạch mạch tạo thành một đám rối xung quanh thận, chụp “thận ngược dòng” sẽ thấy rất rõ chỗ thông và đám rối này.

Các hình bất thường ở niệu quản và bàng quang, ngoài những thay đổi bếnh lý ở thận, có thể thấy thay đổi ở:

Niệu quản: Sỏi niệu quản, niệu quản bị giãn, bị hẹp hoặc bị đè bẹp làm phần trênniệu quản bị giãn, niệu quản dị dạng (hai niệu quản).

Bàng quang:  Sỏi bàng quang, u bàng quang.

Thay đổi về chức năng: Các tổn thương thận trên đây, khi đã ảnh hưởng đến chức phận lọc cầu thận, gây suy thận thì thời gian bài tiết chấtcản quang sẽ chậm lại: không phải là 15 phút mà phải 30 phút  hay hơn nữa, đài và bể thận mới hiện hình  và thường không rõ. Có khi chất cản quang không được bài tiết. Lúc đó ta gọi là thận câm hay thận bị loại trừ. Muốn biết tổn thương thận trong trường hợp đó, phải “ chụp thận ngược   òng”.

Các tật bẩm sinh: Chỉ có một thận hoặc có 3 thận, thận hình móng ngựa, hai thận cùng bên, hai thận chung một niệu quản…

Chụp thận ngược dòng có thuốc cản quang

Phương pháp: Dùng một dụng cụ đặc biệt là máy chụp bể thận ngược dòng, qua máy soi đưa một ống thông lên tới bể thận qua lỗ niệu quản; bơm thuốc cản quang theo ống thông vào bể thận rồi chụp. Dụng cụ này giống như máy soi bàng quang nhưng có thêm bộ phận để đưa ống thông vào bể thận được.

Ưu điểm và chỉ định:

Ưu điểm:

Đưa thuốc thẳng vào bể thận, thuốc không bị pha loãng. Do đó hình đài và bể thận rất rõ, rõ hơn chụp thận qua đường tĩnh  mạch.

Ngoài việc để chụp x quang, còn có tác dụng:

Rửa bể thận, đưa thuốc kháng sinh vào bể thận.

Lấy nước tiểu thẳng từ trên thận xuống thử, và lấy được nước tiểu riêng rẻ từng bên.

Chỉ định:

Vì có những  ưu điểm trên, nên có  các chỉ định:

Tất cả những trường hơp mà không thể thực hiện được chụp thận bằng đường tĩnh mạch như: dị ứng với iot, không ép được bụng vì người bệnh có thai hoặc cổ trướng.

Chụp thận qua đường tĩnh mạch kết quả không rõ ràng.

Đái dưỡng chấp: chụp ngược dòng bơm với áp lực mạnh hơn nên thấy đám rối bạch mạch rõ hơn trong chụp thận bằng đường tĩnh mạch.

Nhược điểm và chống chỉ định:

Nhược điểm:

Chỉ biết được hình đài, bể thận, mà không biết được khối lượng thận, hình dáng thận, không biết được chức năng thận.

Dễ bị nhiễm khuẩn từ dưới đưa lên: Trong khi làm phải thực hiện vô khuẩn. Nếu bơm mạch dễ gây vỡ đài thận làm chảy máu thận.

Phức tạp hơn chụp đường tĩnh mạch.

Chống chỉ định:

Có nhiễm khuẩn ở phần dưới - niệu đạo, bàng quang.

Kết quả:

Thấy đài, bể thận như chụp thận bằng đường tĩnh mạch nhưng rõ hơn.

Chụp thận bơm hơi sau màng bụng

Ngoài phương pháp chụp thận có thuốc cản quang, người ta còn chụp thận bằng cách bơm một chất khí vào vùng ổ thận để tách thận khỏi tố chức chung quanh, nhìn thấy rất rõ hình dáng, khối lượng thận và cả tuyến thượng thận nữa. Nó là phương pháp tốt nhất để  chụp tuyến thượng thận.

Nhưng nó chỉ cho biết hình thái bề ngoài của thận, thượng thận mà thôi nó không cho biết tình trạng đài thận, bể thận cũng như không biết được chức năng thận.

Phương pháp và cách tiến hành:

Dùng kim chọc thẳng vào vùng thận rồi bơm hơi vào.

Phương pháp này có nhược điểm:

Dễ chọc vào thận, nguy hiểm vì dễ chảy máu ở thận.

Ít có khả năng chọc mũi kim vào đúng  hố thận, hơi vào không tập trung ở hố thận.

Chỉ làm được một bên.

Đau.

Phương pháp này ít tác dụng.

Bơm hơi từ dưới xương cùng cụt lên qua một kim chọc ở vùng đó sát mặt trước xương cụt: Hơi sẽ theo tổ chức lỏng lẻo sau màng bụng đi lên tập trung ở vùng thận. Phương pháp này có kết quả tốt nên hay áp dụng. Cách tiến hành chụp như sau:

Tư thế người bệnh: nằm sấp quì hai đầu gối để mông cao, nếu chụp cả hai bên. Hoặc nằm nghiêng co hai chân nếu chụp một bên. Dùng một kim dài chọc ở mỏm xương cụt  lên phía trước, rồi đi  sát mặt  trước xương cụt  hoặc sát bờ  trước xương cụt đi lên, sâu khoảng 6-7 cm. Cần thăm trực tràng để kiểm tra kim khỏi chọc vào trực tràng. Sau đó bơm hơi:

Hơi có thể là không khí, oxy, nitơ hoặc cacbogen.

Khối lượng bơm: chụp hai bên, bơm 1,5 đến 1,7 lít, chụp một bên, bơm 1 lít.

Bơm xong, để người bệnh ngồi dậy 5-10 phút cho hơi đi lên hố chậu. Sau đó chụp. Tốt nhất là bơm hơi   ưới sự  kiểm tra của Xquang để biết hơi có vào hố chậu thận hay không và có vào đều hai bên hay không đều.

Chỉ định:

Chụp tuyến thượng thận thăm dò hình thái.

Để phân biệt khối u thận với tuyến thượng thận.

Để phân biệt các khối u trong ổ bụng với  khối khối u thận hay thượng thận.

Những trường hợp không chụp thận được bằng đường tĩnh mạch, đường ngược dòng hoặc làm được nhưng kết quả không rõ ràng.

Phối hợp với chụp thận ngược dòng: sẽ thấy được rất rõ hình thể thận và đài bể thận.

Tai biến:

Gây đau: Đau lưng, đau bụng.

Gây tràn khí.

Ở dưới da: Sờ sẽ lép bép.

Ở trung thất: Người bệnh khó thở. Cần cho người bệnh nằm sấp và đầu thấp,  mông cao.

Tắc mạch do hơi: Rất hiếm, gây liệt, hôn mê.

- Chọc  kim vào trực tràng: gây chảy máu trực tràng.

Kết quả:

Như chụp thận không thuốc cản quang, ngoài ra còn thấy thêm cả tuyến thượng thận. Tuyến thượng thận to ra, trong các khối u của vỏ hay tuỷ thượng thận. Có thể thấy các nốt vôi hoá của thượng thận.

Chụp thận qua đường động mạch

Phương pháp: đưa một ống thông qua động mạch đùi lên động mạch chủ, tới sát động mạch thận (TL1).  Bơm chất cản quang vào chụp thật mạnh. Hoặc dùng một kim chọc thẳng vào vùng thắt lưng tới động mạch chủ ngang TL1, rối bơm chấtcản quang vào như trên và chụp.

Trong thì đầu: 3 giây chụp một phim, chụp 2 phim, sau đó 12 giây chụp 1 phim nữa.

Kết quả và giá trị:

Về thời gian bình thường:

Giây 1 đến 4 (thì động mạch): Thấy động mạch thận và các nhánh.

Giây 3 đến 6 (thì thận): Thấy hình thận.

Giây 12 (thì tĩnh mạch).

Giây thứ 60 (thì bài tiết): Hình đài bể thận.

Bệnh lý:  Thì động mạch kéo dài, chứng tỏ hẹp động mạch thận.

Thì tĩnh mạch kéo dài: Có viêm tắc tĩnh mạch thận.

Thì bài tiết kéo dài: Chứng tỏ khả năng lọc của thận  giảm vì suy thận hoặc do có chèn ép ở đường tiết niệu.

Chỉ định:

Tăng huyết áp do bệnh động mạch thận.

Khối u thận: Nơi có khối u có nhiều huyết quản mói sinh. Ở dấy sẽ thấy một mạng lưới dày đặc huyết quản.

Bệnh thận bẩm sinh.

Chống chỉ định tuyệt đối:

Khi có triệu chứng suy thận.

Chụp thận bằng phóng xạ

Dùng chất lợi niệu thuy ngân mà thủy ngân là Hg203 phóng xạ, hoặc biclorua Hg mà Hg107.

Tiêm 1-1,5milicuri vào tĩnh mạch. Dùng máy phát hiện phóng xạ di động trên vùng thận để tìm vị trí giới hạn hình thù của thận, và phát hiện những bóng khuyết của nang thận, u thận, teo thận. Đây còn là một phương pháp thăm dò  chức năng thận nhờ vào việc đo độ phóng xạ của thận. Phương  pháp này  hiện nay chưa được áp dụng  rộng rãi và chưa có kết quả thực tế.

Soi bàng quang

Phương pháp

Dùng máy soi đưa vào bàng quang để soi trực tiếp niêm mạc bàng quang và dị vật.

Phương pháp  này phải thực hiện vô khuẩn: rửa sạch lỗ niệu đạo quy đầu, âm hộ trước khi đưa máy soi vào. Máy soi phải tiệt khuẩn bằng trioxymetylen, phải sát khuẩn tay trước khi làm.

Kết quả

Bình thường: Niêm mạc vùng tam giác cổ bàng quang màu hồng. Các nơi khác màu trắng nhạt.

Có một vài mạch máu nhỏ, thỉnh thoảng có nước tiểu phụt từ trên niệu quản xuống.

Giá trị bệnh lý:

Khối lượng bàng quang nhỏ: Chỉ đưa được một khối lượng rất ít (50-60ml) khi bơm nước vào bàng quang. khối lượng bàng quang nhỏ chứng tỏ viêm bàng quang mạn tính, lao bàng quang.

Sỏi bàng quang:

Tình trạng niêm mạc bàng quang:

Đỏ xung huyết, trong viêm bàng quang cấp.

Có những dải xơ xoáy cuộn như cơn lốc, trong viêm bàng quang mạn.

Có những ổ loét ở dưới hai lỗ niệu quản, vùng đỉnh bàng quang, trong lao bàng quang.

Các loại khối u bàng quang.

Gĩan tĩnh mạch bàng quang.

Ngoài những tổn thương ở bàng quang ra, còn có thể nhìn thấy nước tiểu không bình thường ở thận chảy xuống: mủ, máu.

Trong nghiệm pháp bài tiết chất màu, soi bàng quang giúp cho ta biết  thời gian thận bài tiết chất màu, thận nào bài tiết nhanh hay chậm.

Chống chỉ định

Niệu đạo đang có mủ.

Bài viết cùng chuyên mục

Phản xạ nắm: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Phản xạ nắm dương tính dự đoán tổn thương vùng thùy trán, nhân sâu hoặc chất trắng dưới vỏ, phản xạ nắm xuất hiện ở trẻ sơ sinh bình thường từ khoảng 25 tuần đến 6 tháng tuổi.

Biến đổi hình dạng sóng tĩnh mạch cảnh: sóng a đại bác

Cơ chế của hầu hết nguyên nhân gây song a đại bác là do sự chênh lệch về thời gian tâm thu giữa nhĩ và thất, hậu quả là tâm nhĩ co trong khi van ba lá đang đóng.

Khám lâm sàng hệ thống thận tiết niệu

Mỗi người có hai thận nằm hai bên cột sống, trong hố thận, bờ trong là bờ ngoài cơ đài chậu, cực trên ngang mỏm ngang đốt sống lưng 11, cực dưới ngang  mỏm ngang đốt sống lưng 3, thận phải thấp hơn thận trái.

Thoái hóa khớp gối: chẩn đoán và điều trị nội khoa

Đau khớp thường liên quan đến vận động đau âm ỉ, tăng khi vận động, khi thay đổi tư thế, giảm đau về đêm và khi nghỉ ngơi. Đau diễn biến thành từng đợt, dài ngắn tuỳ trường hợp, hết đợt có thể hết đau.

Dấu hiệu chữ V: tại sao và cơ chế hình thành

Viêm da cơ là viêm cơ đặc trưng bởi các tổn thương vi mạch làm phá hủy cơ bằng cơ chế miễn dịch, chủ yếu là lắng đọng bổ thể, phức hợp miễn dịch cũng tham gia một phần.

Bầm máu: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Bầm máu co thể gặp ở hội chứng Cushing, hội chứng tăng ure huyết, rối loạn chức năng tiểu cầu, bám dính vào thành mạch, thiếu máu, các yếu tố khác như thuốc cephalosporins và aspirin.

Xét nghiệm các bệnh phẩm hô hấp

Các tác nhân bệnh lý của đường hô hấp thường gây một phản ứng toàn thân, do đó cần thiết phải tìm những phản ứng này ngoài các xét nghiệm bệnh phẩm trực tiếp

Teo cơ do đái tháo đường: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Một số nghiên cứu gần đây cho thấy quá trình xâm nhập của viêm, globulin miễn dịch và bổ thể và các mạch máu nhỏ, gợi ý rằng viêm mao mạch qua trung gian miễn dịch có thể là nguyên nhân.

Khám phản xạ

Mỗi phản xạ tương ứng với ba khoanh tuỷ. Theo qui ước, ta chỉ dùng khoanh giữa để chỉ. Ví dụ phản xạ bánh chè tương ứng ở tuỷ lưng L3. Hình thức cơ bản của hoạt động thần kinh là hoạt động phản xạ.

Phản xạ giác mạc: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Khám phản xạ giác mạc có ích trong mất thính giác một bên và yếu nửa mặt một bên, và trong đánh giá chức năng cuống não. Mất phản xạ giác mạc gặp ở 8% các bệnh nhân cao tuổi bình thường theo một nghiên cứu.

Hạ huyết áp trong bệnh nội tiết: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Hạ huyết áp là một triệu chứng phổ biến trong suy thượng thận nguyên phát cấp tính – có tới 88% số bệnh nhân có hạ huyết áp. Tuy nhiên, có nhiều nguyên nhân gây hạ áp, vì thế chỉ đơn độc một triệu chứng thì không có giá trị nhiều.

Bướu trán: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Trong bệnh to đầu chi, việc sản xuất quá mức các hormon tăng trưởng gây phát triển quá mức xương sọ, đặc biệt là xương trán.

Vệt giả mạch: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Vệt giả mạch là của những vết rạn nhỏ mỏng manh hoặc sự vôi hóa ở màng Bruch. Cơ chế rõ ràng cho những bất thường ở màng Bruch chưa được xác minh.

Âm thổi tâm trương: âm thổi hẹp van ba lá

Cũng như tổn thương các van khác trong bệnh tim hậu thấp, sự dày hoá các lá van, xơ cứng các mép van và các thừng gân bị rút ngắn và cứng ngăn cản van mở do đó làm rối loạn dòng máu lưu thông qua lỗ van.

Phì đại lưỡi: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Có vài nhận xét dựa trên bằng chứng về giá trị của phì đại lưỡi. Tuy nhiên, nếu nó xuất hiện, đó hầu như là bệnh lý và cần phải tìm hiểu nguyên nhân.

Giảm trương lực cơ: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Giảm trương lực cơ là triệu chứng thường gặp nhất của neuron vận động dưới. Do tổn thương tiểu não một bên, ít phổ biến hơn, đây có thể là một triệu chứng của bệnh lý tiểu não hay bệnh lý cấp tính của neuron vận động trên.

Dấu Hoffman: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Dấu Hoffman gây ra bởi sự hoạt hoá phản xạ căng cơ đơn synap. Phản xạ được khuếch đại do sự tăng phản xạ xuất hiện khi rối loạn chức năng neuron vận động trên.

Âm thổi tâm thu: âm thổi hẹp van động mạch chủ

Hầu hết nguyên nhân gây hẹp van động mạch chủ dẫn đến hậu quả cuối cùng là quá trình tổn thương tiến triển và vôi hoá các lá van, dẫn tới hẹp hoặc tắc nghẽn diện tích lỗ van và/hoặc xơ cứng các lá van.

Dáng đi thất điều: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Dáng đi thất điều điển hình là dấu hiệu của tiểu não giữa, nhưng có thể có trong tổn thương bán cầu tiểu não. Trong nghiên cứu bệnh nhân có tổn thương tiểu não một bên, thất điều tư thế hiện diện 80-93 phần trăm.

Thở mím môi: nguyên nhân và cơ chế hình thành

Mím môi cho phép bệnh nhân thở chống lại lực kháng, do đó duy trì một áp lực thở ra chậm trong phổi và giữ cho tiểu phế quản và đường dẫn khí nhỏ luôn mở rộng, rất cần thiết cho sự trao đổi oxy.

Mạch nghịch thường: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Ở người khỏe mạnh mạch quay giảm biên độ trong thì hít vào sâu. Đó là do hít vào làm giảm áp lực trong lồng ngực, làm máu tĩnh mạch về tim phải nhiều hơn. Thất phải giãn và vách liên thất cong về phía thất trái, ngăn máu về thất trái.

Hội chứng tràn dịch màng phổi

Ổ màng phổi là một khoảng ảo. Bình thường trong ổ màng phổi có rất ít thanh dịch, đủ cho lá thanh và lá tạng trượt lên nhau được dễ dàng trong động tác hô hấp.

Rối loạn cân bằng acid bazơ

Để duy trì nồng độ H ở các khu vực nội và ngoại bào trong phạm vi phù hợp với điều kiện sống và hoạt động của tế bào, các axit này luôn luôn được trung hoà.

Âm thổi tâm trương: âm thổi hở van động mạch phổi

Âm thổi hở van động mạch phổi gây ra do lá van động mạch phổi bị mất chức năng cho phép máu lưu thông ngược từ động mạch phổi vào tâm thất phải trong kì tâm trương.

Phản hồi gan tĩnh mạch cảnh: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Phản hồi gan tĩnh mạch cảnh hữu ích khi phối hợp với những dấu hiệu và triệu chứng khác và sẽ tăng giá trị tăng JVP. Nó nhạy nhưng không đặc hiệu cho bất kì bệnh nào, vì vậy phải xem xét tổng thể lâm sàng.