Thăm dò hình thái quang học thận

2011-10-26 03:37 PM

X quang thận là một loại phương pháp được áp dụng phổ biến nhất và có giá trị lớn để thăm dò hình thái của thận. Ngày nay có nhiều phương pháp khác nhau.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

X quang thận

X quang thận là một loại phương pháp được áp dụng phổ biến nhất và có giá trị lớn để thăm dò hình thái của thận. Ngày nay có nhiều phương pháp khác nhau. Có những phương pháp như chụp xinê thận bằng x quang, chụp tĩnh mạch thận, còn ít được áp dụng và ít có giá trị thực tế, nên không nói tới trong bài này.

Dưới đây là những phương pháp thông thường được áp dụng nhiều trong thực tế.

Chụp thận không có thuốc cản quang

Phương pháp: Thụt tháo trước cho sạch phân và hết hơi. Chụp phim thẳng, nghiêng, và chếch. Chụp tốt có thể rõ được hình thận với bờ của nó.

Kết quả:

Bình thường: Vị trí và khối lượng: thận nằm hai bên cột sống, cực trên ngang mỏm ngang L11, cực dưới ngang mỏm ngang TL3. thận phải thấp hơn thận trái một chút. Bờ trong của thận nằm sát bờ ngoài cơ thắt lưng chậu, chiều ngang khoảng 5cm (qua giữa thận).

Hình thái: Hình bầu dục, bờ ngoài lồi, bờ trong lõm.

Bệnh lý: Chụp thận theo phương pháp này có thể  thấy hai dấu hiệu bất thường:

Hình thận to hơn bình thường: cần chụp thận có thuốc cản quang để xác định chắc  chắn.

Sỏi: Chụp thận không có thuốc cản quang chủ yếu là để tìm sõi.

Sỏi Canxi photphat, canxi cacbonat, oxalat, amoni photphat, magie thấy được hình cản quang, còn sỏi axit uric, xantin, xystin, không thấy được vì không cản quang.

Sỏi có thể hình tròn, bầu dục, hình ngón tay đi găng, bờ tròn hoặc nhẵn nham nhở, có thể nhầm sỏi với:

 Mỏm ngang cột sống, cục vôi hoá, hạch bụng vôi hoá, điểm xương quá đậm của xương chậu.

Cục phân.

Sỏi túi mật: Chụp nghiêng,  sỏi túi mật ở trước cột sống, sỏi thận ở sau cột sống.

Chụp thận có thuốc cản quang qua đường tĩnh mạch

Mục đích:

Để thăm dò thay đổi hình thái của thận.

Để thăm dò chức năng thận.

Do đó giúp cho chẩn đoán xác định, chẩn đoán nguyên nhân.

Chỉ định:

Trong tất cả những trường hợp bệnh lý của thận, tiết niệu như: Sỏi thận, lao thận, ung thư thận, đái ra máu chưa rõ nguyên nhân, đái dưỡng chấp…

Để chẩn đoán phân biệt thận với một khối u ổ bụng.

Chống chỉ định:

Khi có suy thận: Trước khi chụp phải thử urê máu, nếu trên 1g/lít không được làm.

Khi có dị ứng với iot: trước khi làm cũng phải thử phản ứng với iot trước: Tiêm ½ - 1ml thuốc cản quang có iot  vào tĩnh mạch xem có phản ứng  gì không.

Khi đang đái ra máu đại thể.

Đang có suy tim.

Có thai hoặc  bụng có cổ trướng: Làm cản trở việc ép bụng trong khi chụp thận.

Phương pháp: Cần phải thụt tháo phân trước.

Giai đoạn đầu: Chụp 1 phim thường trước, sau dó tiêm thuốc cản quang rồi ép  bụng  để  ép một  niệu quản không cho nước tiểu có thuốc cản quang chảy ngay xuống bàng quang.

Giai đoạn ép: 2-3 phút  sau khi tiêm, chụp một phim rồi sau đó cứ 15 phút chụp một phim. Chụp 2-3 phim

Giai đoạn bỏ ép: Sau khi bỏ ép, chụp ngay một phim để xem niệu quản và bàng quang.

Kết quả:

Bình thường:

Hình thái, vị trí, khối lượng thận: Đã nói ở trên.

Thời gian hiện hình.

Thận: 5-6 phút đã thấy được hiện hình.

Đài và bể thận:  Phải sau 15 phút mới hiện hình rõ.

Hình đài và bể thận: Bể thận chia làm ba nhóm đài thận, mỗi đài thận to lại chia thành 2-3 đài nhỏ. Mỗi đài nhỏ tận cùng bằng hình càng cua. Hướng đi của các đài thận có khác nhau, nhóm trên đi lên trên, nhóm giữa đi ngang ra ngoài, nhóm   ưới đi chếch xuống dứoi và ra ngoài.

Niệu quản: Có chỗ phình, chỗ thắt do co bóp, nhưng không to, đường kính khoảng 0,5  đến 0,7 cm, niệu quản có thể bị cong.

Thay đổi bệnh lý: Chủ yếu là ở thân và đài bể thận với những biến đổi sau:

Về vị trí: Thận sa, chụp khi đứng và nhảy vài cái trước khi chụp, thận sẽ  nằm ở thấp hơn, có khi ở hố chậu.

Về hình thái và khối lượng:

- Thận nhỏ lại.

Trong trường hợp bệnh kéo dài như lao thận  vôi hoá (thận mátit), thận không hoạt động sẽ nhỏ lại.

Viêm thận mạn tính.

- Thận to ra:

Có những trường hợp sau đây làm thận to ra do ứ nước bể thận.

Thận to ra nhưng vẫn giữ được hình dáng của thận: Bể thận và đài thận giãn to, có khi thành hình tròn như những quả bóng.

Chỗ tắc, thuốc không qua được hoặc qua rất chậm, dưới chỗ tắc đó, đài bể thận và niệu quản vẫn bình thường.

Thời gian ngấm thuốc đầy đài và bể thận rất chậm có khi hàng giờ.

Nguyên nhân chủ yếu của ứ nước bể thận là sỏi. Bằng phương pháp chụp này có thể nhìn thấy được hình thái của sỏi, có khi tròn, có khi hình san hô, khối lượng có thể bằng hạt đỗ hoặc to hơn, có khi nằm ở đài thận, bể thận hoặc niệu đạo. Ngoài ra có các nguyên nhân khác như dây chằng hoặc  nhánh động mạch chủ vắt ngang quan niệu quản, có thai..

Lao thận.

Thời kỳ đầu: các gai thận bị tổn thương trước tiên, nên có hình càng cua không nhẵn mà bị gặm dang dở. Đài thận cũng có thể bị gặm mòn.

Thời kỳ tiến triển: Các đài thận bị tắc, bị cắt cụt hay ngược lại, bị giãn ra thành hình tròn hình ngón tay đeo găng.

Có khi thấy được các hình hang, nếu các hang này thông với đài thận hoặc bể thận.

U thận: Ngoài hình thận to, bờ lồi lõm làm thay đổi hình dáng của thận, đặc biệt ta thấy các thay đổi bể thận và đài thận.

Đài thận bị kéo dài ra, lệch hướng đi, bị cắt cụt hoặc bị giãn co. Có khi thấy hình đài thận bị đè bẹp thành hình “vết lõm ăn ngón tay” hoặc “hình khuyết như bờ cong dạ   ày”, … nếu là thận nhiều nang, thường thấy những thay đổi ở cả hai bên. Còn trong ung thư thận, những thay đổi đó  thường ở một bên thận.

Trường hợp khối u bể thận thì bể thận bị hẹp lại, nếu là khối u ác tính thì bờ nham nhở, nếu là khối lành tính thì bờ nhẵn. 50% trường hợp này là lành tính.

Đái dưỡng chấp: Ở đây hình thái và khối lượng thận, hệ thống các đài thận và bể thận không biến dạng. Nhưng từ các đài thận có chỗ thông với hạch mạch tạo thành một đám rối xung quanh thận, chụp “thận ngược dòng” sẽ thấy rất rõ chỗ thông và đám rối này.

Các hình bất thường ở niệu quản và bàng quang, ngoài những thay đổi bếnh lý ở thận, có thể thấy thay đổi ở:

Niệu quản: Sỏi niệu quản, niệu quản bị giãn, bị hẹp hoặc bị đè bẹp làm phần trênniệu quản bị giãn, niệu quản dị dạng (hai niệu quản).

Bàng quang:  Sỏi bàng quang, u bàng quang.

Thay đổi về chức năng: Các tổn thương thận trên đây, khi đã ảnh hưởng đến chức phận lọc cầu thận, gây suy thận thì thời gian bài tiết chấtcản quang sẽ chậm lại: không phải là 15 phút mà phải 30 phút  hay hơn nữa, đài và bể thận mới hiện hình  và thường không rõ. Có khi chất cản quang không được bài tiết. Lúc đó ta gọi là thận câm hay thận bị loại trừ. Muốn biết tổn thương thận trong trường hợp đó, phải “ chụp thận ngược   òng”.

Các tật bẩm sinh: Chỉ có một thận hoặc có 3 thận, thận hình móng ngựa, hai thận cùng bên, hai thận chung một niệu quản…

Chụp thận ngược dòng có thuốc cản quang

Phương pháp: Dùng một dụng cụ đặc biệt là máy chụp bể thận ngược dòng, qua máy soi đưa một ống thông lên tới bể thận qua lỗ niệu quản; bơm thuốc cản quang theo ống thông vào bể thận rồi chụp. Dụng cụ này giống như máy soi bàng quang nhưng có thêm bộ phận để đưa ống thông vào bể thận được.

Ưu điểm và chỉ định:

Ưu điểm:

Đưa thuốc thẳng vào bể thận, thuốc không bị pha loãng. Do đó hình đài và bể thận rất rõ, rõ hơn chụp thận qua đường tĩnh  mạch.

Ngoài việc để chụp x quang, còn có tác dụng:

Rửa bể thận, đưa thuốc kháng sinh vào bể thận.

Lấy nước tiểu thẳng từ trên thận xuống thử, và lấy được nước tiểu riêng rẻ từng bên.

Chỉ định:

Vì có những  ưu điểm trên, nên có  các chỉ định:

Tất cả những trường hơp mà không thể thực hiện được chụp thận bằng đường tĩnh mạch như: dị ứng với iot, không ép được bụng vì người bệnh có thai hoặc cổ trướng.

Chụp thận qua đường tĩnh mạch kết quả không rõ ràng.

Đái dưỡng chấp: chụp ngược dòng bơm với áp lực mạnh hơn nên thấy đám rối bạch mạch rõ hơn trong chụp thận bằng đường tĩnh mạch.

Nhược điểm và chống chỉ định:

Nhược điểm:

Chỉ biết được hình đài, bể thận, mà không biết được khối lượng thận, hình dáng thận, không biết được chức năng thận.

Dễ bị nhiễm khuẩn từ dưới đưa lên: Trong khi làm phải thực hiện vô khuẩn. Nếu bơm mạch dễ gây vỡ đài thận làm chảy máu thận.

Phức tạp hơn chụp đường tĩnh mạch.

Chống chỉ định:

Có nhiễm khuẩn ở phần dưới - niệu đạo, bàng quang.

Kết quả:

Thấy đài, bể thận như chụp thận bằng đường tĩnh mạch nhưng rõ hơn.

Chụp thận bơm hơi sau màng bụng

Ngoài phương pháp chụp thận có thuốc cản quang, người ta còn chụp thận bằng cách bơm một chất khí vào vùng ổ thận để tách thận khỏi tố chức chung quanh, nhìn thấy rất rõ hình dáng, khối lượng thận và cả tuyến thượng thận nữa. Nó là phương pháp tốt nhất để  chụp tuyến thượng thận.

Nhưng nó chỉ cho biết hình thái bề ngoài của thận, thượng thận mà thôi nó không cho biết tình trạng đài thận, bể thận cũng như không biết được chức năng thận.

Phương pháp và cách tiến hành:

Dùng kim chọc thẳng vào vùng thận rồi bơm hơi vào.

Phương pháp này có nhược điểm:

Dễ chọc vào thận, nguy hiểm vì dễ chảy máu ở thận.

Ít có khả năng chọc mũi kim vào đúng  hố thận, hơi vào không tập trung ở hố thận.

Chỉ làm được một bên.

Đau.

Phương pháp này ít tác dụng.

Bơm hơi từ dưới xương cùng cụt lên qua một kim chọc ở vùng đó sát mặt trước xương cụt: Hơi sẽ theo tổ chức lỏng lẻo sau màng bụng đi lên tập trung ở vùng thận. Phương pháp này có kết quả tốt nên hay áp dụng. Cách tiến hành chụp như sau:

Tư thế người bệnh: nằm sấp quì hai đầu gối để mông cao, nếu chụp cả hai bên. Hoặc nằm nghiêng co hai chân nếu chụp một bên. Dùng một kim dài chọc ở mỏm xương cụt  lên phía trước, rồi đi  sát mặt  trước xương cụt  hoặc sát bờ  trước xương cụt đi lên, sâu khoảng 6-7 cm. Cần thăm trực tràng để kiểm tra kim khỏi chọc vào trực tràng. Sau đó bơm hơi:

Hơi có thể là không khí, oxy, nitơ hoặc cacbogen.

Khối lượng bơm: chụp hai bên, bơm 1,5 đến 1,7 lít, chụp một bên, bơm 1 lít.

Bơm xong, để người bệnh ngồi dậy 5-10 phút cho hơi đi lên hố chậu. Sau đó chụp. Tốt nhất là bơm hơi   ưới sự  kiểm tra của Xquang để biết hơi có vào hố chậu thận hay không và có vào đều hai bên hay không đều.

Chỉ định:

Chụp tuyến thượng thận thăm dò hình thái.

Để phân biệt khối u thận với tuyến thượng thận.

Để phân biệt các khối u trong ổ bụng với  khối khối u thận hay thượng thận.

Những trường hợp không chụp thận được bằng đường tĩnh mạch, đường ngược dòng hoặc làm được nhưng kết quả không rõ ràng.

Phối hợp với chụp thận ngược dòng: sẽ thấy được rất rõ hình thể thận và đài bể thận.

Tai biến:

Gây đau: Đau lưng, đau bụng.

Gây tràn khí.

Ở dưới da: Sờ sẽ lép bép.

Ở trung thất: Người bệnh khó thở. Cần cho người bệnh nằm sấp và đầu thấp,  mông cao.

Tắc mạch do hơi: Rất hiếm, gây liệt, hôn mê.

- Chọc  kim vào trực tràng: gây chảy máu trực tràng.

Kết quả:

Như chụp thận không thuốc cản quang, ngoài ra còn thấy thêm cả tuyến thượng thận. Tuyến thượng thận to ra, trong các khối u của vỏ hay tuỷ thượng thận. Có thể thấy các nốt vôi hoá của thượng thận.

Chụp thận qua đường động mạch

Phương pháp: đưa một ống thông qua động mạch đùi lên động mạch chủ, tới sát động mạch thận (TL1).  Bơm chất cản quang vào chụp thật mạnh. Hoặc dùng một kim chọc thẳng vào vùng thắt lưng tới động mạch chủ ngang TL1, rối bơm chấtcản quang vào như trên và chụp.

Trong thì đầu: 3 giây chụp một phim, chụp 2 phim, sau đó 12 giây chụp 1 phim nữa.

Kết quả và giá trị:

Về thời gian bình thường:

Giây 1 đến 4 (thì động mạch): Thấy động mạch thận và các nhánh.

Giây 3 đến 6 (thì thận): Thấy hình thận.

Giây 12 (thì tĩnh mạch).

Giây thứ 60 (thì bài tiết): Hình đài bể thận.

Bệnh lý:  Thì động mạch kéo dài, chứng tỏ hẹp động mạch thận.

Thì tĩnh mạch kéo dài: Có viêm tắc tĩnh mạch thận.

Thì bài tiết kéo dài: Chứng tỏ khả năng lọc của thận  giảm vì suy thận hoặc do có chèn ép ở đường tiết niệu.

Chỉ định:

Tăng huyết áp do bệnh động mạch thận.

Khối u thận: Nơi có khối u có nhiều huyết quản mói sinh. Ở dấy sẽ thấy một mạng lưới dày đặc huyết quản.

Bệnh thận bẩm sinh.

Chống chỉ định tuyệt đối:

Khi có triệu chứng suy thận.

Chụp thận bằng phóng xạ

Dùng chất lợi niệu thuy ngân mà thủy ngân là Hg203 phóng xạ, hoặc biclorua Hg mà Hg107.

Tiêm 1-1,5milicuri vào tĩnh mạch. Dùng máy phát hiện phóng xạ di động trên vùng thận để tìm vị trí giới hạn hình thù của thận, và phát hiện những bóng khuyết của nang thận, u thận, teo thận. Đây còn là một phương pháp thăm dò  chức năng thận nhờ vào việc đo độ phóng xạ của thận. Phương  pháp này  hiện nay chưa được áp dụng  rộng rãi và chưa có kết quả thực tế.

Soi bàng quang

Phương pháp

Dùng máy soi đưa vào bàng quang để soi trực tiếp niêm mạc bàng quang và dị vật.

Phương pháp  này phải thực hiện vô khuẩn: rửa sạch lỗ niệu đạo quy đầu, âm hộ trước khi đưa máy soi vào. Máy soi phải tiệt khuẩn bằng trioxymetylen, phải sát khuẩn tay trước khi làm.

Kết quả

Bình thường: Niêm mạc vùng tam giác cổ bàng quang màu hồng. Các nơi khác màu trắng nhạt.

Có một vài mạch máu nhỏ, thỉnh thoảng có nước tiểu phụt từ trên niệu quản xuống.

Giá trị bệnh lý:

Khối lượng bàng quang nhỏ: Chỉ đưa được một khối lượng rất ít (50-60ml) khi bơm nước vào bàng quang. khối lượng bàng quang nhỏ chứng tỏ viêm bàng quang mạn tính, lao bàng quang.

Sỏi bàng quang:

Tình trạng niêm mạc bàng quang:

Đỏ xung huyết, trong viêm bàng quang cấp.

Có những dải xơ xoáy cuộn như cơn lốc, trong viêm bàng quang mạn.

Có những ổ loét ở dưới hai lỗ niệu quản, vùng đỉnh bàng quang, trong lao bàng quang.

Các loại khối u bàng quang.

Gĩan tĩnh mạch bàng quang.

Ngoài những tổn thương ở bàng quang ra, còn có thể nhìn thấy nước tiểu không bình thường ở thận chảy xuống: mủ, máu.

Trong nghiệm pháp bài tiết chất màu, soi bàng quang giúp cho ta biết  thời gian thận bài tiết chất màu, thận nào bài tiết nhanh hay chậm.

Chống chỉ định

Niệu đạo đang có mủ.

Bài viết cùng chuyên mục

Chẩn đoán lách to

Lách nằm lẩn trong lồng ngực, không sờ thấy đuợc, trừ các trẻ nhỏ, thành bụng nhẽo, Chỉ gõ được vùng đục của lách ở đường nách sau, cao độ 2, 3cm.

Xanh tím và xanh tím trung ương: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Trong tím trung ương, điểm then chốt cần nhớ là máu nghèo oxy rời khỏi tim. Nó hiện diện ở tuần hoàn động mạch trước cả khi đến ngoại biên. Điều này do bão hòa oxy thấp và/hoặc bất thường Hb.

Yếu cơ gốc chi trong bệnh nội tiết: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Triệu chứng này xuất hiện ở 60-80% bệnh nhân cường giáp, ngoài ra nó cũng xuất hiện trong nhiều bệnh lý nội tiết và các rối loạn khác. Hiếm khi yếu cơ gốc chi là biểu hiện đầu tiên của bệnh cường giáp.

Ngón tay dùi trống: chứng xương khớp phì đại tổn thương phổi (HPOA)

Ngón tay dùi trống và chứng xương khớp phì đại tổn thương phổi được cho rằng có sinh bệnh học chung. Hiện nay, người ta thừa nhận rằng những tiểu cầu lớn hoặc megakaryocyte tăng cường đi vào tuần hoàn hệ thống ngoại vi hơn là bị phá hủy ở phổi.

Âm thổi tâm trương: âm thổi hẹp van hai lá

Khi lỗ van bị hẹp, lượng máu lưu thông qua nó trong kì tâm trương trở nên rối loạn và tạo nên tâm thổi đặc trưng. Rất đặc hiệu cho hẹp van hai lá và cần được tầm soát thêm nếu nghe được.

Lồng ngực hình thùng: tại sao và cơ chế hình thành

Cho rằng là do hoạt động quá mức của cơ bậc thang và cơ ức đòn chũm là những cơ kéo xương sườn phía trên và xương ức lên. Qua thời gian, sự hoạt động quá mức này làm biến đổi lồng ngực.

Chẩn đoán hạch to

Thường  mọi bệnh lý của hệ thống tổ chức tân đều biểu hiện trên lầm sàng bằng  những hạch to. Do đó chẩn đoán hạch to cho ta một ý niệm rõ ràng về những bệnh của hệ thống này.

Nghiệm pháp Hawkins: tại sao và cơ chế hình thành

Hawkins có giá trị chẩn đoán giới hạn. Nó có độ đặc hiệu thấp và chỉ có độ nhạy vừa phải và chỉ có thể có giá trị nếu cơn đau theo nghiệm pháp là nghiêm trọng.

Phì đại lưỡi: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Có vài nhận xét dựa trên bằng chứng về giá trị của phì đại lưỡi. Tuy nhiên, nếu nó xuất hiện, đó hầu như là bệnh lý và cần phải tìm hiểu nguyên nhân.

Khó thở: triệu chứng cơ năng hô hấp

Khó thở làm thay đổi các đặc điểm hoạt động thở bình thường của bệnh nhân như tần số thở, thời gian của thì hít vào và thở ra, sự phối hợp và tham gia của các cơ hô hấp

Run vô căn: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Run vô căn tương đối lành tính và nên được phân biệt với các dạng khác của run. Cơ chế của run vô căn chưa được biết rõ. Run vô căn có thể xuất phát từ rối loạn chức năng của tiểu não.

Đái ra protein

Nếu đái ra protein nhiều, thường kèm theo cả đái ra lipit với thể chiết quang. Đái protein kéo dài và nhiều, sẽ làm thay đổi thành phần protein trong máu.

Hạ huyết áp trong bệnh nội tiết: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Hạ huyết áp là một triệu chứng phổ biến trong suy thượng thận nguyên phát cấp tính – có tới 88% số bệnh nhân có hạ huyết áp. Tuy nhiên, có nhiều nguyên nhân gây hạ áp, vì thế chỉ đơn độc một triệu chứng thì không có giá trị nhiều.

Tổn thương Janeway: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Tổn thương Janeway có giá trị giới hạn của một dấu hiệu, chỉ gặp ở 4–10% bệnh nhân viêm nội tâm mạc nhiễm trùng. Nếu xuất hiện, cần tầm soát thêm các dấu hiệu khác của viêm nội tâm mạc nhiễm trùng.

Hội chứng ống cổ tay

Hội chứng ống cổ tay được James Paget mô tả từ giữa thế kỷ 18. Đây là một rối loạn thần kinh ngoại vi thường gặp nhất, khoảng 3% người trưởng thành ở Mỹ có biểu hiện hội chứng này.

Âm thổi tâm trương: một số dấu hiệu của hở van động mạch chủ

Hở van động mạch chủ trước đây đã được gọi theo nhiều tên khác nhau. Mặc dù những tên gọi này có cách gọi tên và cách diễn đạt rất thú vị, cơ chế và ý nghĩa của chúng đến nay vẫn còn chưa rõ ràng.

Đau bụng

Đau bụng là một dấu hiệu cơ năng hay gặp nhất trong các bệnh về tiêu hóa và các tạng trong ổ bụng. Dấu hiệu đau có tính chất gợi ý đầu tiên khiến người thầy thuốc có hướng hỏi bệnh, thăm khám bệnh để chẩn đoán nguyên nhân gây đau bụng là gì.

Phản xạ cằm: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Phản xạ cằm tăng là triệu chứng của tổn thương neuron vận động trên hai bên, phía trên cầu não. Mất chi phổi thần kinh trên nhân vận động thần kinh sinh ba làm tăng tính nhạy cảm của các neuron vận động alpha chi phối cho cơ nhai.

Đa niệu trong bệnh nội tiết: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Đa niệu thường có 2 cơ chế chính: độ thẩm thấu và sự thải nước tự do. Trong vài trường hợp, chất có mức độ thẩm thấu cao trong huyết thanh được lọc qua thận vì sự bài tiết của chất hòa tan không được tái hấp thu.

Giảm phản xạ và mất phản xạ: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Trong một vài nghiên cứu trên các bệnh nhân chưa được chẩn đoán bệnh thần kinh trước đó, 6-50% bệnh nhân mất phản xạ gân gót hai bên mặc dù đã dùng các nghiệm pháp tăng cường.

Liệt mặt (một bên): dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Liệt mặt một bên được nhanh chóng đánh giá để loại trử tổn thương thần kinh vận động cao hoặc trung tâm, thường gặp nhất do nhồi máu hoặc xuất huyết não.

Bệnh án và bệnh lịch nội khoa

Bệnh án và bệnh lịch đều là những tài liệu cần thiết để chẩn đoán bệnh được đúng, theo dõi bệnh đựợc tốt và do đó áp dụng được kịp thời các phương thức điều trị đúng đắn.

Các phương pháp khám cận lâm sàng gan mật

Phương pháp lâm sàng bằng sờ, gõ chỉ cho ta nhận định được tình trạng của gan khi nó to, nhô ra khỏi bờ sườn, ngay cả trong trường hợp đấy, chúng ta cũng chỉ sờ.

Chứng khó phát âm: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Chứng khó phát âm có thể là triệu chứng quan trọng trong rối loạn chức năng thần kinh quặt ngược thanh quản, thần kinh phế vị (dây X) hoặc nhân mơ hồ, nhưng thường liên quan nhất tới viêm thanh quản do virus.

Bệnh võng mạc do tăng huyết áp và dấu hiệu dây bạc và dây đồng

Liên quan đến màu sắc bất thường của tiểu động mạch khi nhìn qua kính soi đáy mắt. Trong dây đồng, tiểu động mạch màu đỏ nâu, trong dây bạc, tiểu động mạch màu xám.