- Trang chủ
- Sách y học
- Triệu chứng học nội khoa
- Thăm dò chức năng thận
Thăm dò chức năng thận
Theo Ludwig, Cushny thì cầu thận là một màng lọc bán thẩm thấu, lọc các chất có trọng huyết tương, trừ protein và mỡ. Oáng thận sẽ tái hấp thu một số lớn nước để thành nước tiểu thực sự.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những xét nghiệm thuộc loại này cũng có rất nhiều và có nhiều cách sắp xếp. Có cách sắp xếp theo phương pháp làm xét nghiệm. Ví dụ: các xét nghiệm cần lấy máu và các xét nghiệm không cần lấy máu. Có cách sắp xếp theo chức năng sinh lý của thận. Ví dụ: các xét nghiệm thăm dò bài tiết urê, các xét nghiệm thăm dò chức phận chuyển hoá nước và muối, v.v….
Dù sắp xếp theo cách nào thì qua các xét nghiệm đó chúng ta cũng cần phải biết tổn thương ở cầu thận, ống thận không, hay tổn thương ở cả hai. Cho nên trong bài này sẽ sắp xếp các xét nghiệm thành 3 nhóm:
Các xét nghiệm thăm dò chức năng toàn bộ.
Các xét nghiệm thăm dò chức năng lọc của thận.
Các xét nghiệm thăm dò chức năng ngoại tiết (excretion) và tái hấp thu của ống thận.
Các xét nghiệm đó không phải hoàn toàn tách rời hẵn nhau. Những xét nghiệm này khá phức tạp và kết quả chỉ có giá trị tương đối vì nó chịu ảnh hưởng của rất nhều yếu tố: bản thân quá trình sinh lý học của thận cũng đã khá phức tạp, mà còn nhiều vấn đề y học chưa biết tới, chưa lý giải được. Mặt khác những xét nghiệm đó chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố ngoại lai như kỹ thuật sinh hoá, cách lấy nước tiểu, lấy máu, v.v…cho nên phải thực hiện các xét nghiệm hết sức thận trọng, chính xác.
Cần nói thêm rằng, những xét nghiệm dưới đây là thăm dò cả hai thận. Trong thực tế có thể chỉ một thận tổn thương, hoặc một bên nặng một bên nhẹ. Muốn thăm dò từng thận phải lấy nước tiểu từng bên qua ống thông đưa lên bể thận.
Quá trình hình thành nước tiểu
Để hiểu rõ nguyên lý của các phương pháp thăm dò, cần nhắc lại quá trình hình thành nước tiểu như sau:
Theo Ludwig, Cushny thì cầu thận là một màng lọc bán thẩm thấu, lọc các chất có trọng huyết tương, trừ protein và mỡ. Oáng thận sẽ tái hấp thu một số lớn nước để thành nước tiểu thực sự. Gần đây người ta thấy ống thận còn ngoại tiết một số chất. Như vậy sự hình thành nước tiểu có 3 quá trình: lọc ở cầu thận, tái hấp thụ và ngoại tiết của ống thận.
Hiện tượng lọc ở cầu thận
Cầu thận lọc khoảng 20% huyết tương đi qua nghĩa là 120 - 130 ml phút của cả hai thận.
Richarras, Arthur, Walker,… lấy nước tiểu ở cầu thận của súc vật, thấy không có protein, mỡ và có Glucoza. Đo độ glucoza, Cl, urê, photphat, creatinin, axitsunfuric,… giống hệt như trong huyết tương và có cùng áp lực thẩm thấu, cùng tính chất dẫn điện cùng pH. Có một số chất chỉ lọc bởi cầu thận mà không bị tái hấp thụ bởi ống thận như creatinin nội sinh, insulin, mannitol, Na hyposunfit, sucroza, xyloza.
Cho nên có thể dùng các chất này để tính khối lượng lọc của cầu thận dựa trên khái niệm về độ lọc (cléarence): nếu gọi D là lưu lượng của một chất được đào thải hết vào nước tiểu trong một phút, P là độ đậm của chất đó trong huyết tương ở cùng thời gian đó thì tỷ số D/P là lượng huyết tương mang chất đó đi qua cầu thận trong một phút và được cầu thận lọc hết. Tỷ số D/P gọi là “độ lọc” D và P đều là con số biết được. Độ lọc cầu thận của các chất trên gàn giống như nhau đều bằng 130 ml/phút.
Tái hấp thu ở ống thận
Hầu hết các chất hữu cơ được tái hấp thụ ở ống thận. Glucoza được hấp thu hoàn toàn ở ống thận. Urê, axit, uric, axit amin được tái hấp thu 1phần còn phốt phat, Cl, Na, được tái hấp thu quá nhiều, cứ mỗi phút 130ml nước tiểu đầu tiên, chỉ còn lại 1-2ml nước tiểu thực sự.
Hiện tượng ngoại tiết của ống thận
Ống thận còn ngoại tiết ra một số chất. Hiện tượng này trước hết là đối với các chất như là iot cản quang. PAH, PSP, pennixilin, streptomyxin và cả K nữa, cho nên cũng dựa vào nguyên lý trên, người ta tính được “độ lọc” các chất đó của ống thận căn cứ vào khả năng ngoại tiết của ống thận. Những chất nào có độ lọc lớn hơn độ lọc cầu thận là có thêm hiện tượng tiết của ống thận. Ví dụ:
PAH 600-700ml/phút.
Iot 600 - 700ml/phút.
PSP 400ml/phút.
Có một số yếu tố ảnh hưởng đến “độ lọc” của ống thận.
Sự cố định của protein huyết thanh:
Ví dụ PAH có độ lọc 600. phần cầu thận là 120. phần ống thận là 480. nhưng PAH - cũng giống như một số các chất khác - không hoàn toàn tự do trong huyết tương mà một phần nhỏ gắn vào protein (đối với PAH = 20%), điều đó không gây cản trở cho sự ngoại tiết của ống thận nhưng gây cản trở cho việc lọc ở cầu thận, độ lọc ở cầu thận của PAH bị giảm 20%.
Giới hạn trên hay thềm ngoại tiết của ống thận:
Độ lọc ống thận của các chất trên chỉ có giá trị khi độ đậm của nó trong huyết tương đối thấp. Nếu cao qua một một giới hạn nào đó thì ống thận thải tiết giảm đi. Đối với PAH giới hạn trên “Tm” là 76mg/phút.
Sự cạnh tranh của các chất:
Hai chất cùng ngoại tiết bởi ống thận sẽ cạnh tranh lẫn nhau. Ví dụ khi bài tiết PAH, độ lọc của PSP giảm. Ở cầu thận không bao giờ có hiện tượng này.
Có những chất vừa tái hấp thu vửa bị ngoại tiếp:
Ví dụ kali. Do đó những kết quả thăm dò chức năng ống thận chỉ có giá trị tương đối so với những thăm dò chức năng cầu thận.
Khái niệm về “độ lọc” có một tầm quan trọng đặc biệt trong các phương pháp thăm dò chức năng thận dưới đây:
Thăm dò chức năng toàn bộ
Có 4 phương pháp:
Nghiên cứu đậm độ một số chất trong máu: Urê và creatinin, các chất điện giải.
Nghiên cứu khả năng bài tiết urê.
Nghiên cứu khả năng bài tiết một số chất màu: phenol sunfolphatalein (PSP), bleu methylen.
Nghiên cứu khả năng cô đặc của thận: Do tỷ trọng nước tiểu.
Định lượng một số chất trong máu
Có một số chất khi suy thận sẽ bị ứ lại trong máu như: axituric, một số chất điện giải, N cặn bã…
Định lượng creatinin:
Lượng creatinin mà ta thu được là tổng số creatinin chuyển từ creatin ra.
Bình thường có 0,8 -1,2 mg/%.
Bệnh lý: 1,5mg/%. Khi creatinin tăng lên > 7mg/% thì tiên lượng xấu. Ngược lại, nồng độ creatinin trong nước tiểu giảm đi (bình thường creatinin trong nước tiểu là 80 -100mg/%).
Định lượng urê máu:
Bình thường 20 - 30 mg/% không quá 50mg/%.
Trong viêm thận cấp, mạn, ứ nước bể thận… tăng lên cao, có khi tới 300 -400mg/%, trong núơc tiểu urê lại giảm xuống (bình thường: 26 -30g/lít).
Định lượng nitơ toàn phần và nitơ cặn bã:
Tỷ số giữa N toàn phần phi protein và N urê:
Bình thường Nurê/N toàn phần = 50%. Trong suy thận, tỷ số này tăng lên đến 90 -96%.
Định lượng các chất điện giải:
Bình thường:
Tổng các chất điện giải trong máu bình thường trong đó:
Na = 140 mEq.
Ca = 5 mEq.
Mg = 2 mEq.
K = 4 mEq.
Cl = 103 mEq.
PO4 = 2 mEq.
Bệnh lý:
Suy thận: Cl-, Na+, có thể tăng do rối loạn chức năng lọc của cầu thận, tái hấp thu của ống thận. Cl- có thể giảm do nôn nhiều (trong hội chứng urê máu tăng), K+, Mg++, thường tăng; PO- tăng; SO4-. PO- tăng và Ca++ giảm.
Ngoài suy thận, còn một số trường hợp khác cũng có thay đổi điện giải máu.:
Ăn nhạt lâu ngày ( o suy tim, xơ gan…): Tổng lượng các chất điện giải giảm Cl, Na, K đều giảm.
Mất nước cấp diễn: Cl, Na, K, Ca giảm.
Dùng Coctison lâu ngày: Cl, Na tăng, K giảm.
Hội chứng Conn: Cl, Na, tăng, K giảm.
Bệnh Addison: K tăng, Na, Cl giảm.
Nghiên cứu khả năng bài tiết urê của thận
Tỷ số: Urê trong máu lúc đói/urê nước tiểu 24 giờ. Phương pháp Jules Cottes:
Bình thường R = Urê máu x 100 / Urê nước tiểu 24 giờ = 2. Suy thận sẽ tăng quá 2. tỷ số này ít có giá trị.
Hằng số:
Trước đây có làm nhưng hiện nay không áp dụng nữa vì thiếu chính xác.
Độ lọc Vanslyke (cléarance de Purée):
Người bệnh nằm nghỉ hoàn toàn trong thời gian làm xét nghiệm. Sáng sớm đi tiểu hết bỏ đi.
Nằm nghỉ và uống 100ml nước, 1 giờ sau đi đái lấy nước tiểu, đồng thời lấy máu đem thử urê.
Lại uống 100ml nước nữa, 1 giờ sau lấy nước tiểu. Trộn nước tiểu hai lần và đem thử urê. Có thể cho người bệnh uống ½ đến 1 lít nước để lấy số lượng nướcx tiểu được nhiều.
Cách tính độ lọc:
Có hai cách:
Lượng nước tiểu >2 ml/phút: độ lọc tối đa (Ltđ). Nếu K là khối lượng nước tiểu /phút. Ut là độ đậm urê trong nước tiểu thì lưu lượng urê/phút = K x Ut. Đậm độ của urê huyết tương là Um thì lượng huyết tương mà thận lọc hết urê trong một phút (độ lọc urê/phút) sẽ là:
K x Ut / Um.
Đó là độ lọc tối đa. Nếu tính ra phần trăm thì độ lọc tối đa %: Ltđ% = Ltđ x 100 / 75 = Ltđ x 1,33.
Lượng nước tiểu < 2ml/phút: độ lọc mẫu (Lm):
Đó là độ lọc tối đa. Nếu tính ra phần trăm thì độ lọc tối đa phần trăm:
Lượng nước tiểu < 2ml/phút: độ lọc mẫu (Lm).
Hoặc tính %:
Kết quả:
Bình thường: Ltđ % = 75% ; Lmẫu = 54%
Bệnh lý: Nếu Ltđ <75% là suy thận. Trong đó:
50 - 75% là nghi ngờ.
50 - 30% suy thận rõ.
10 - 30% suy thận rõ.
10 - 30% suy thận nặng.
10% trở xuống: Sắp chết, nguy kịch.
Đối với độ lọc mẫu dưới 50% là suy thận.
Theo Hamburger nghiệm pháp này chỉ có giá trị khi không bị sai sót lúc lấy máu, urê máu dưới 80mg%. phương pháp này đánh giá trình độ suy thận tốt hơn bằng số Ambard.
Đối với người bệnh gầy yếu, không lấy núơc tiểu 2 giờ, mà lấy nước tiểu 24 giờ thật đúng, thật hết và tìm lưu lượng urê /phút. Lấy máu nhiều giờ trong ngày tìm urê (có thể lấy 2,3 lần rồi chia trung bình), chia urê nước tiểu /phút cho urê máu. Với phương pháp này, độ lọc dưới 40ml/phút mới coi là suy thận.
Nghiên cứu khả năng bài tiết chất màu và tỷ trọng nước tiểu.
Chủ yếu là để thăm dò ống thận, sẽ nói ở phần sau:
Thăm dò chức năng lọc cầu thận
Độ lọc inulin Manitol Na hyposunfit
Người ta thường dùng inulin, manitol, Na Hyposunfit để đo độ lọc cầu thận vì các chất này không bị biến hoá đi trong cơ thể, chúng có độ lọc hằng định dù độ đậm của nó trong huyết tương cao hay thấp, không bị tái hấp thu, không bị ống thận bài tiết.
Cách làm:
Chất định dùng cần tiêm rỏ giọt tỉnh mạch để giữ độ đậm trong huyết tương luôn luôn hằng định. Nước tiểu đi từ cầu thận tới bàng quang mất 6 - 8 phút nên độ đậm trong nước tiểu sẽ tương ứng với độ đậm trong máu trước đó 6- 8 phút.
Inulin: Dùng dung dịch 10% để đạt tớ độ đậm trong huyết tương là 200 - 350g/lít. Hyposunfit: dùng dung dịch 10%, với liều lượng 20g/kg thể trọng, Mannitol dùng dung dịch 20%, 50ml, 30 phút sau khi tiêm các chất đó, đái hết bỏ nước tiểu đi, uống 300ml nước.
Phút 40 lấy 15ml máu (có fluorua để bảo quản).
Phút 50 lấy nước tiểu thật hết.
Phút 60 lại lấy 15ml máu.
Phút 70 lấy nước tiểu.
Định lượng các chất đó trong máu và nước tiểu, áp dụng công thức U x V / P để tính độ lọc (U và P là đậm độ chất thí nghiệm trong nước tiểu và trong máu. V là lượng nước tiểu trong 1 phút). Nếu so sánh với diện tích cơ thể (1,73m2).
Kết quả:
Bình thường: Độ lọc của các chất trên gần giống nhau và bằng 130ml/phút ± 30.
Bệnh lý: Khi dưới 100ml/phút là suy thận.
Theo Hamburger thì các phương pháp này chỉ có giá trị khi lấy nước tiểu đúng, liều lượng nước tiểu phải trên 1,5 ml/phút.
Inulin là một polyosit, dùng nó có gây khó khăn là dễ gây tai biến, đắt tiền và định lượng khó nhưng chính xác nên còn hiện được sử dụng rộng rãi ở nơi có đủ điều kiện và phương tiện. Manitol là chất đa rượu dễ dùng, rẻ tiền, dễ định lượng. Nhưng trong trường hợp ống thận có tồn thương thì nó bị hấp thu lại từ 5 - 15% kết quả bị sai lạc. Na hyposunfit cũng vậy, được áp dụng ở nơi thiếu phương tiện và không có điều kiện.
Độ lọc Creatinin
Cách làm:
Sáng nhịn đói, uống 2g creatinin và 50ml nước, nằm nghỉ 1 giờ sau lấy nước tiểu và máu, 40 phút sau lấy máu và nước tiểu lần 2.
Máu hai lần trộn lẫn, nước tiểu cũng trộn lẫn và đem định lượng creatinin rồi áp dụng công thức chung để tính độ lọc creatinin ngoại sinh: hoặc tính theo công thức:
Độ đậm creatinin nước tiểu / độ đậm creatinin máu = chỉ số đậm độ. Lưu lượng nước tiểu/phút = L.
Độ lọc creatinin C = chỉ số đậm độ x L.
Kết quả:
Bình thường: 110ml/phút.
Bệnh lý: Suy thận, suy tim < 100ml/phút.
Gần đây người ta lợi dụng ngay creatinin nội sinh. Phương pháp tiến hành cũng như đối với “ độ lọc” urê 24 giờ đã nói ở trên. Bình thường là 120. phương pháp này tiện lợi hơn vì không phải tiêm thuốc gì thêm. Lấy máu chỉ có một lần. Lấy nước tiểu 24 giờ ít bị sai lầm.
Thăm dò chức năng ống thận
Ống thận có nhiều chức năng: tái hấp thu nước để cô đặc nước tiểu, tái hấp thu chất điện giải và một số chất như glucoza, phôt phát. Ngoại tiết một số chất lạ như PAH, tham gia điều chỉnh độ axit, bazơ trong máu…dưới đây là một số phương pháp chủ yếu thăm dò chức năng ống thận.
Thăm dò chức năng chuyển hoá nước
Chủ yếu là các phương pháp đo tỷ trọng nước tiểu, qua đó biết được khả năng tái hấp thu nước, làm cô đặc nước tiểu của ống thận.
So sánh lượng nước tiểu trong ngày và đêm:
Lấy nước tiểu 9 giờ sáng đến 9 giờ tối và từ 9 giờ tối đến 9 giờ sáng ngày hôm sau. Bình thường lượng nước tiểu ban ngày gấp hai lần ban đêm. Nếu ban đêm nhiều hơn thường là do ứ nước và suy thận.
Đo tỷ trọng nước tiểu 3 giờ 1 lần (phương pháp Zimmiski):
Bình thường tỷ trọng thay đổi tuỳ theo lượng nước uống vào. Trong suy thận tỷ trọng ít thay đổi và thấp.
Nghiệm pháp gây đái nhiều của Vaquez Cottet:
Cho uống một lượng nước 600ml trong vòng 4 giờ. Lượng nước tiểu bài tiết ra bàng hoặc lớn hơn lượng nước uống vào, tỷ trọng thay đổi từng lúc. Trong suy thận, lượng nước tiểu ít hơn và tỷ trọng giảm, không thay đổi.
Nghiệm pháp pha loãng của Volhard:
Người bệnh nhịn đói, thông bàng quang, lấy hết nước tiểu. Sau đó cho uống 1,5 lít nước trong vòng nửa giờ. Người bệnh nằm ngửa trên giường trong thời gian làm nghiệm pháp. Cứ nửa giờ lấy nước tiểu 1 lần để định số lượng và tỷ trọng, làm trong 4 giờ liền.
Kết quả:
Bình thường: Tỷ trọng lúc thấp nhất dưới 1,002. lượng nước tiểu bài tiết trong 4 giờ bằng hoặc lớn hơn lượng nước uống vào.
Suy thận: Số lượng nước bài tiết ra ít hơn lượng núơc uống vào. Tỷ trọng lúc thấp nhất trên 1,002. phươn pháp này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố ngoại thận như gan, tim…
Chống chỉ định khi có phù hoặc suy hoàn toàn.
Nghiệm pháp cô đặc của Vohard:
Người bệnh nằm nghỉ trên giường suốt 24 giờ, ăn khô không uống nước. Tổng số nước đưa vào cơ thể trong 24 giờ tối đa là 500ml. Cứ 3 giờ lấy nước tiểu một lần, định tỷ trọng và số lượng, làm trong 24 giờ.
Kết quả:
Bình thường: Thận bài tiết từ 300 - 700ml nước tiểu. Tỷ trọng 1,025 đến 1,035. tỷ trọng lúc cao nhất tối thiểu phải 1,025.
Suy thận: Tỷ trọng giảm dưới 1,025.
Phương pháp này bị ảnh hưởng của các yếu tố: Ra mồ hôi nhiều, ỉa chảy, nôn.
Các bệnh ảnh hưởng đến chuyển hoá nước và điện giải như suy tim, suy gan, phù niêm (myxoedème), thoái hoá thận dạng tinh bột, Basedow, Addison. Ngoài các trường hợp trên nó có giá trị đánh giá suy thận, nhất là urê máu bình thường, Pastuer Vallery Radot cho rằng trong hai phương pháp trên, phương pháp cô đặc có giá trị hơn. Nhưng nó không ảnh hưởng trực tiếp đến thận. Nhịn uống sẽ kích thích bài tiết nhiều hocmon chống đái nhiều của tuyến yên làm tăng tái hấp thu của ống thận.
Nghiệm pháp làm thay đổi tỷ trọng nước tiểu bằng tinh chất thùy sau tuyến yên:
Tinh chất thuỳ sau tuyến yên có tác dụng làm tăng hấp thu của ống thận do đó đái ít đi.
Cách làm: Uống 750 ml nước trong 45 phút. Sau đó đái hết bỏ đi. Một giờ sau đái hết, lấy nước tiểu tỷ trọng núơc tiểu này là a. Tiêm ngay 10 đơn vị thùy sau tuyến yên (tiêm dưới da) 1 giờ, 2 giờ sau khi tiêm lại lấy nước tiểu, tỷ trọng nước tiểu này là D (lấy mẫu nước tiểu nào có tỷ trọng cao nhất).
Kết quả:
Bình thường: d = 100% dao động trong 80 - 130%; a càng cao, d càng thấp thì càng gần tỷtrọng giới hạn.
Bệnh lý: Dưới 80% = ống thận tổn thương, càng thấp tổn thương càng nặng.
Trên 130% trong suy gan. Gan không phá huỷ tinh chất thuỳ trong tuyến yên.
Phương pháp này rất có giá trị để thăm dò chức năng ống thận. Nếu chỉ có cầu thận tổn thương mà ống thận không tồn thương thì nghiệm pháp này bình thường.
Chống chỉ định: Có thai, tăng huyết áp, có cơn đau thắt ngực.
Thăm dò chức năng bài tiết chất màu PSP và xanh Metylen
Phương pháp PSP:
Uống 200ml nước làm hai lần, cách nhau 30 phút. Sau đó 15 phút lấy nước tiểu, rồi tiêm tĩnh mạch 1ml dung dịch PSP 6%, 15 phút và 70 phút sau khi tiêm, thông bàng quang lấy nước tiểu vào hai cốc khác nhau. Làm kiềm tính nước tiểu bằng vài giọt Na, thêm cho đủ 1000ml bằng nước cất. Đem so sánh với mẫu PSP.
Kết quả:
Bình thường: PSP bài tiết sau 15 phút ít nhất là 15% và sau 70 phút ít nhất là 55%.
Suy thận: PSP bài tiết giảm đi. Nếu bài tiết giảm ½ thì urê máu tăng cao, nếu bài tiết rất ít, urê máu thường quá cao, trên 2g/lít. Khi đường tiết niệu bị tắc thì thời gian bài tiết PSP bị chậm hoặc không bài tiết ra được.
Phương pháp này hay áp dụng vì dễ thực hiện và ít độc.
Phương pháp xanh Metylen:
Trong phương pháp thăm dò bài tiết chất màu, có thể dùng xanh metylen 1/120 tiêm 1ml vào tĩnh mạch. Sau đó soi bàng quang để quan sát thời gian bài tiết xanh metylen ra nước tiểu của từng bên thận. Nếu không soi được thì thông bàng quang lấy nước tiểu, nước tiểu có xanh metylen sẽ có màu xanh.
Kết quả:
Bình thường: 30 phút sau nước tiểu có màu xanh. Giờ thứ 3-4 xanh nhất. Sau 48 giờ xanh hết.
Bệnh lý: Bài tiết kéo dài và chậm trong viêm thận kẽ.
Bài tiết sớm và nhiều trong viêm thận bán cấp.
Ứ nước tiểu bể thận: Thời gian bài tiết cũng chậm hoặc bị tắc hẳn.
Hai phương pháp này có thể bị sai lạc kết quả vì liều lượng không đúng, nhất là trong trường hợp có cản trở trong đường tiết niệu làm cho các chất đó bài tiết chậm và ít đi: sỏi thận niệu quản, tiền liệt tuyến to…
Độ lọc PAH
Diodrast và PAG là hai chất người ta thấy hầu như biến mất trong máu tĩnh mạch sau khi đã qua thận. Ở tĩnh mạch thận, chúng chỉ còn tối đa 10% so với trong máu động mạch thận.
Cách làm:
Dùng dung dịch PAH 20% tiêm nhỏ giọt tĩnh mạch để giữ cho đậm độ trong huyết tương được hằng định, không cao quá 50mg/l. có thể cho uống 6g PAH trong 300ml nước, nhưng không tốt bằng.
30 phút sau khi đái hết nước tiểu, bỏ đi, uống 300ml nước, phút 40 lấy 15 ml máu. Phút 50 lấy nước tiểu, phút 60 lấy 15ml máu và phút 70 lấy nước tiểu. Định lượng PAH trong máu và nước tiểu. Áp dụng công thức chung để tính ra độ lọc.
Cách tính lưu lựong máu qua thận: từ độ lọc trê căn cứ vào hematocrit để tính lưu lượng máu qua thận. Ví dụ độ lọc PAH là 600ml/phút hemato rit để tính lưu lượng máu qua thận. Ví dụ độ lọc PAH là 600 ml/phút hematocrit là 45/100. lưu lượng máu qua thận/ phút sẽ là: 600 x 100 / 55 = 1080ml/phút.
Kết quả:
Bình thường: Độ lọc PAH là 600ml/phút ± 200. lưu lượng máu qua thận 1200ml/phút, bằng ¼ lượng tim.
Bệnh lý: Nếu độ lọc dưới 400ml/phút là suy thận hoặc tốc độ tuần hoàn giảm. Muốn đánh giá tốc độ tuần hoàn thận thì ống thận phải hoàn toàn bình thường mới có giá trị.
Lưu lượng máu qua thận giảm: Hẹp động mạch thận, suy tuần hoàn, viêm thận mạn…
Thăm dò từng thận
Trên đây là những phương pháp thăm dò chung cho cả hai thận. Nhưng trong thực tế có khi chỉ có một bên thận bị tổn thương mà thôi, hoặc một bên tổn thương nặng còn bên kia rất nhẹ.
Muốn có thái độ xử trí đúng đắn phải thăm dò từng bên. Thường áp dụng mấy phương pháp sau đây:
Bài tiết chất màu:
Lấy nước tiểu riêng từng thận: Phải đưa ống thông vào từng thận qua máy soi bàng quang.
Chụp thận có chất cản quang qua đường tĩnh mạch.
Dùng iot phóng xạ (I 123).
Hai phương pháp trên đã nói tới. Dươi đây chỉ nói đến phương pháp dùng I 123. đó là phương pháp có giá trị nhất, áp dụng phổ biến ở nhiều nước. Ở nước ta hiện nay chưa áp dụng.
Cách làm: Tiêm 20 milicuri I123, loại hipurat vào tĩnh mạch. Dùng máy đếm hai cực đặt ở thận trái và phải, một cực đặt ở trước tim để đo độ tập trung của I123. thời gian nghiên cứu từ 15 - 30 phút.
Kết quả: Kết quả được biểu diễn bằng một đường cong parabon.
Bình thường: Đường biểu diễn của thận có 3 giai đoạn.
OA: giai đoạn vào động mạch thận: 2-4 phút.
AB: giai đoạn vào nhu mô thận: 3 phút.
BC: giai đoạn bài tiết: 5 - 8phút.
Đường biểu diễn của máu là đường cong hypecbon, thời gian 5-7 phút
Bệnh lý:
AB kéo dài: Các bệnh về mạch thận như hẹp, tắc động mạch thận.
AB kéo dài: Các bệnh suy thận như viêm cầu thận, viêm đài bể thận mạn tính làm suy thận. BC kéo dài: các bệnh làm tắc đường tiết niệu như sỏi, lao.
Kết luận
Vấn đề chọn lọc các phương pháp, khó mà đề ra được một công thức nhất định. Tuỳ theo tình hình thực tế, tuỳ theo điều kiện hoàn cảnh mà áp dụng phương pháp nào cho thích hợp.
Những nơi có phương tiện và điều kiện nên áp dụng phương pháp nào chính xác và trung thành nhất. Những nơi không có đủ điều kiện phương tiện nên áp dụng những phương pháp đơn giản. Dưới đây là những phương pháp thăm dò chức năng thận xếp theo thứ tự quan trọng từ trên xuống:
Thăm dò chức năng toàn bộ:
Đo urê máu và độ lọc Vanslyke.
Tỷ lệ các chất điện giải trong máu.
Thăm dò chức năng cầu thận:
Độ lọc inulin.
Độ lọc manitol.
Độ lọc creatin nội sinh
Thăm dò chức năng ống thận:
Tính chất thuỳ sau tuyến yên.
Độ lọc PAH.
Bài tiết PSP.
Nghiệm pháp Vohar.
Đo tỷ trọng nước tiểu theo phương pháp Zimmiski 3 giờ đo một lần. Thăm dò từng thận riêng rẻ.
Lấy nước tiểu từng bên.
Chụp thận có chất cản quang qua tĩnh mạch.
Dùng I123
Bài viết cùng chuyên mục
Ghi điện cơ và điện thần kinh
Khi thời gian cần thiết để gây co cơ cho những cường độ dòng điện khác nhau được biểu hiện bằng đồ thị ta sẽ có đồ thị cường độ thời gian kích thích
Tăng thông khí: tại sao và cơ chế hình thành
Có nhiều yếu tố tâm thần và thể chất có thể gây tăng thông khí. Hình cho thấy rằng có rất nhiều nguyên nhân làm tăng thông khí cùng lúc. Tuy nhiên, có một vài nguyên nhân then chốt cần phải biết.
Huyết áp rộng: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Hiệu áp rộng là một triệu chứng rất có giá trị, phụ thuộc vào hoàn cảnh lâm sàng có thể bắt gặp. Hiệu áp là một yếu tố dự đoán tử vong và thương tật độc lập ở bệnh nhân có huyết áp bình thường và bệnh nhân cao huyết áp.
Tăng trương lực cơ khi gõ/nắm tay: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Tăng tương lực cơ là một triệu chứng của bệnh lý tại kênh ion. Sự bất ổn định của điện tích màng sợi cơ làm kéo dài quá trình khử cực sợi cơ, gây tăng trương lực.
Các tiếng bệnh lý khi nghe phổi
Bình thường khi hô hấp ta chỉ nghe tiếng thở thanh khí quản và tiếng rì rào phế nang, Trong nhiều trường hợp bệnh lý, những thay đổi về cơ thể bệnh ở khí đạo.
Âm thổi tâm trương: tiếng clack mở van
Khoảng cách từ tiếng A2 đến tiếng clack mở van thì ngược lại một phần so với mức độ chênh áp giữa tâm nhĩ và tâm thất trong kì tâm trương. Nói cách khác, khoảng cách tiếng A2 đến tiếng clack mở van càng ngắn, sự chênh áp càng lớn và mức độ hẹp van càng nặng.
Hàm nhô trong bệnh nội tiết: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Hầu như hàm nhô không bao giờ xảy ra đơn độc, vì thế giá trị chẩn đoán của nó khá hạn chế. Ngược lại, nếu không có những triệu chứng khác của bệnh to đầu chi, bất thường bẩm sinh là nguyên nhân chủ yếu.
Tăng phản xạ do cường giáp: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Cơ chế chưa rõ. Có thể liên quan đến việc tăng nhạy cảm với catecholamine do dư thừa hormon tuyến giáp.
Yếu cơ: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Phân độ, phân bố và tiến triển của yếu cơ cùng các triệu chứng đi kèm (ví dụ: các dấu hiệu nơron vận động trên, nơron vận động dưới, khu trú ở vỏ não) rất quan trọng khi đánh giá nguyên nhân gây bệnh.
Chứng rậm lông: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Dù có rất nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng đa số các cơ chế gây ra chứng rậm lông đều là tăng quá mức androgen. Androgen làm tăng kích thước nang lông và đường kính sợi lông, và kéo dài pha tăng trưởng của sợi lông.
Dấu hiệu Heliotrope: tại sao và cơ chế hình thành
Mặc dù nghiên cứu còn rất ít ỏi, dấu hiệu Heliotrope (có màu tím) là một dấu hiệu rất có giá trị trong viêm bì cơ nên được coi là một dấu hiệu chẩn đoán xác định.
Liệt liếc dọc: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Liệt liếc dọc là dấu hiệu tổn thương trung năo. Đường dẫn truyền nhìn lên trên có nguồn gốc từ nhân kẽ đoạn phía ngọn bó dọc giữa và phức hợp phía sau để phân bố tới dây vận nhãn và dây ròng rọc, đi xuyên qua mép sau.
Nghiệm pháp gắng sức
Hiện nay, nhiều cơ sở đâ áp dụng nghiệm pháp này trong các kỹ thuật thăm dò mới, gắng sức với siêu âm, gắng sức với xạ tưới máu cơ tim
Biến đổi hình thái sóng tĩnh mạch cảnh: mất sóng y xuống
Bất cứ bệnh lý nào làm hạn chế hoặc ngăn cản sự đổ đầy tâm thất trong kì tâm trương đều gây mất sóng y - xuống. Trong chèn ép tim, áp lực từ dịch trương, gây cản trở đổ đầy thất trong kì tâm trương và do đó làm mất sóng y xuống.
Tiếng tim thứ tư: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Sự co áp lực của nhĩ tống máu vào tâm thất trái kém đàn hồi. Máu bị chặn lại đột ngột do thành thất trái xơ cứng tạo ra tiếng động tần số thấp do chuyển động, và được xem là tiếng tim thứ tư.
Dấu hiệu chữ V: tại sao và cơ chế hình thành
Viêm da cơ là viêm cơ đặc trưng bởi các tổn thương vi mạch làm phá hủy cơ bằng cơ chế miễn dịch, chủ yếu là lắng đọng bổ thể, phức hợp miễn dịch cũng tham gia một phần.
Xét nghiệm tìm vi khuẩn và ký sinh vật hệ tiết niệu
Muốn tìm vi khuẩn hoặc ký sinh vật, phải lấy nước tiểu vô khuẩn, nghĩa là phải thông đái, để tránh các tạp khuẩn bên ngoài lẫn vào nước tiểu đó đem cấy vào môi trường thường như canh thang.
Dấu hiệu run vẫy (Flapping Tremor): tại sao và cơ chế hình thành
Cơ chế của dấu hiệu run vẫy trong những trường hợp trên vẫn chưa rõ. Chuỗi dẫn truyền cũng khá mơ hồ; tuy nhiên, một số cơ chế bệnh học cũng được đưa ra.
Biến đổi hình thái sóng: sóng y xuống lõm sâu (dấu hiệu Friedrich)
Sóng y xuống lõm sâu xảy ra trong khoảng 1/3 bệnh nhân bị viêm màng ngoài tim co thắt và 2/3 bệnh nhân bị nhồi máu thất phải, mặc dù chưa được nghiên cứu nhiều và nó cũng thường khó thấy trên lâm sàng.
Tiếng Rales khi nghe phổi: tại sao và cơ chế hình thành
Nếu được nghe thấy khi hít thở bình thường, tiếng rale có nhiều khả năng là bệnh lý. Nhiều đặc điểm tiếng rale có liên quan với nhiều bệnh lý khác nhau.
Tiếng tim thứ nhất mạnh: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Bình thường, các lá của van hai lá và van ba lá có thời gian để di chuyển về phía nhau trước khi tim co bóp. Với khoảng PR ngắn các lá này vẫn còn xa nhau vào lúc tim bắt đầu co bóp, vì vậy chúng tạo ra tiếng đóng rất mạnh từ một khoảng cách xa và làm cho T1 mạnh.
Bệnh võng mạc do tăng huyết áp và bắt chéo động tĩnh mạch
Một tiểu động mạch võng mạc dãn lớn bắt chéo một tĩnh mạch và có thể đè xẹp nó và gây phù nề đoạn xa chỗ bắt chéo. Tĩnh mạch sẽ có dạng đồng hồ cát ở mỗi bên chỗ bắt chéo.
Dáng đi parkinson: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Sự thay đổi tư thế trong hội chứng Parkinson khiến trọng tâm bệnh nhân về phía trước, cân bằng kém trong quá trình vận động. Khi bắt đầu vận động, bệnh nhân có thể có một loạt các bước đi nhanh và nhỏ.
Thở Kussmaul: tại sao và cơ chế hình thành
Thở Kussmaul là một đáp ứng thích nghi của nhiễm toan chuyển hóa. Việc thở sâu, nhanh trong thì hít vào làm giảm thiểu khoảng chết giải phẫu, hiệu quả nhiều hơn việc ‘thổi bay’ khí CO2, do đó sẽ giảm tình trạng nhiễm toan và làm tăng pH.
Hội chứng gai đen (AN): dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Tính phổ biến của hội chứng không rõ ràng và khác nhau rõ rệt giữa các quần thể. Hội chứng gai đen là dấu hiệu có giá trị của tình trạng tăng insulin và kháng insulin ở người lớn và trẻ em.