- Trang chủ
- Sách y học
- Triệu chứng học nội khoa
- Chẩn đoán bệnh học hoàng đản
Chẩn đoán bệnh học hoàng đản
Chẩn đoán hoàng đản thường dễ nhưng phải chẩn đoán được nguyên nhân là do bệnh lý của gan hay của hệ thống đường mật, vì thái độ xử trí có khác nhau.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Hoàng đản là một biểu hiện lâm sàng của tình trạng tăng nhiều bilirubin ở máu và là triệu chứng đặc hiệu chỉ điểm cho một bệnh lý ở hệ thống gan mật.
Chẩn đoán hoàng đản thường dễ nhưng phải chẩn đoán được nguyên nhân là do bệnh lý của gan hay của hệ thống đường mật, vì thái độ xử trí có khác nhau: phần lớn hoàng đản do gan phải điều trị nội khoa, trái lại phần lớn hoàng đản do hệ thống dẫn mật phải điều trị ngoại khoa.
Các phương pháp thăm dò gan mật càng ngày càng tiến bộ, có những phát minh mới giúp cho sự chẩn đoán nguyên nhân hoàng đản được chắc chắn hơn, nhất là trong những trường hợp khó khăn mà chẩn đoán lâm sàng không thể làm được. trái lại trong những trường hợp điển hình, bằng lâm sàng đơn thuần, vận dụng đúng đắn một số quy luật kinh điển về chẩn đoán hoàng đản, chúng ta cẫn có thể chẩn đoán được đúng nguyên nhân hoàng đản.
Chẩn đoán hoàng đản
Chẩn đoán dương tính
Hoàng đản rõ:
Thường để chẩn đoán. Chỉ cần nhận xét:
Màu da: Vàng da, vàng nhiều hoặc ít, thường kết hợp với sạm bẩn.
Nhưng chủ yếu là các niêm mạc, nhất là niêm mạc mắt, mồm và lưỡi.
Nước tiểu: Sẫm màu, vàng như nghệ.
Hoàng đản nhẹ:
Chẩn đoán thường khó khăn hơn, khó nhận định được dưới ánh sáng đèn vì các niêm mạc chỉ hơi phơn phớt vàng, phải nhận xét dưới ánh sáng mặt trời mới phát hiện được. Thường phải xác định bằng xét nghiệm.
Xét nghiệm:
Nước tiểu: Bằng phản ứng Gmelin với axit nitric nitơ, rỏ từ từ vào cốc nước tiểu. Nếu có sắc tố mật ở nước tiểu (nghĩa là có hoàng đản) sẽ xuất hiện một vòng xanh lá cây ngăn cách giữa hai chất lỏng.
Máu: Định lượng bilirubin máu, bình thường 8-12mg/l, sẽ tăng lên trong hoàng đản.
Việc xét nghiệm nước tiểu và máu rất cần thiết để xác định các trường hợp hoàng đản nhẹ. Đối với các hoàng đản rõ, việc định lượng bilirubin máu vẫn cần thiết, không phải để xác định chẩn đoán (vì lâm sàng đã rõ) mà để đánh giá mức độ hoàng đản nhiều hay ít vì có số liệu cụ thể như thế mới theo dõi được chính xác diễn biến của hoàng đản.
Chẩn đoán phân biệt
Chỉ cần phân biệt với các trường hợp vàng da do:
Uống nhiều quinacrin: Người bệnh cũng vàng do, có thể vàng cả gan bàn chân và gan bàn tay, mức độ nhiều hoặc ít. Da ít vàng hơn, màu sắc nước tiểu vẫn bình thường. Cũng như trường hơp trên, chẩn đoán phân biệt với hoàng đản dựa vào:
Niêm mạc mắt, mồm, lưỡi không vàng.
Nước tiểu không có sắc tố mật và bilirubin máu bình thường.
Sau khi xác định hàong đản, chẩn đoán nguyên nhân cần phải đề ra vì chi phối thái độ xử trí, sự nhắc lại giải phẫu sinh lý và sinh bệnh của việc sản xuất và lưu thông mật sẽ làm cho ta hiểu rõ các nguyên nhân đó.
Giải phẫu và sinh lý bệnh
Sự sản xuất và chuyển biến sắc tố mật
Sắc tố mật được cấu tạo từ huyết cầ tố của máu. Huyết cầu tố giải phóng từ các hồng cầu bị hỏng được tích trữ ở lách dưới dạng bilirubin gián tiếp (còn gọi là bilirubin tự do). Chất bilirubin này theo hệ thống cửa về gan và được gan chế biến thành bilirubin trực tiếp (còn gọi là bilirubin kết hợp), chất bilirubin kết hợp một phần ở lại máu, một phần được thải tiết theo hệ thống dẫn mật vào ống tiêu hoá. Trong quá trình ở ruột non, sắc tố mật được biến sang dạng urobilinogen. Urobilinogen sẽ đi theo hai đường.
Một phần đi theo ống tiêu hoá xuống đại tràng và thải tiết ra ngoài dưới dạng stecobilinogen ở phân.
Một phần theo hệ thống tĩnh mạch cửa trở về gan (vàng ruột gan) để phần lớn được gan sử dụng tái sản xuất ra bilirubin, số ít còn lại ở máu sẽ theo đại tuần hoàn đến thận để được thải ra ngoài theo nước tiểu dưới dạng uyobilinogen và nếu nhiều sẽ oxy hoá thành urobilin.
Sự chuyển biến của sắc tố mật nói trên cho ta thấy ngay rằng bình thường:
Ở nước tiểu: không có sắc tố mật, không có muối mật, không có urôbin, chỉ có ít urobilinogen.
Ở phân: Bao giờ cũng có Stecobilinogen (được oxy hoá thành stecobilin) làm cho phân có màu vàng hoặc xanh.
Hệ thống dẫn mật
Mật được gan sản xuất sẽ theo các vi ti mật quản ở trong tiểu thuỳ đến các mật quản của khoảng cửa rồi ra ngoài theo ống gan, ống túi mật và dự trữ ở túi mật, đồng thời được cô đặc lại. Trong các bữa ăn, túi mật co bóp tống mật trở lại ống túi mật chủ để vào tá tràng. Có 3 điểm cần chú ý:
Các vi mật quản trong tiểu thuỳ gan đi theo song song với các vi huyết quản, chỉ bị ngăn cách bởi cột tế bào (cột Remak).
Dọc theo các ống gan và ống mật chủ, có những chuỗi hạch chi phối gan, dạ dày và tuỵ tạng.
Đoạn cuối của ống mật chủ đi sát vào mặt sau hoặc xuyên qua đầu tuỵ để vào đoạn hai của tá tràng tại bóng Vater, cùng với ống tuỵ.
Sinh lý bệnh, phân loại hoàng đản và nguyên nhân
Hiện tượng tăng bilirubin ở máu, gây ra triệu chứng hoàng đản, có thể do:
Sản xuất quá nhiều sắc tố mật. Vì hồng cầu bị vỡ nhiều, giải phóng quá nhiều huyết cầu tố, tiền thân của sắc tố mật, là hoàng đản tan máu (còn gọi là hoàng đản trước gan). Nguyên nhân có thể là:
Bẩm sinh: Bệnh Minkowski Chauffard.
Mắc phải: Sốt rét, nhiễm khuẩn, nhiễm độc (SH2 và chì), có khi có huyết cầu tố lạ trong máu.
Tổn thương tế bào gan: Làm cho mật ở các vi ti mật quản dễ thẩm thấu vào các vi huyết quản, mặt khác song song với các tổn thương của tế bào gan, các vị trí mật quản cũng có thể bị tổn thương, tiết nhiều chất nhầy làm thành các nút nhầy, gây tắc các vi ti mật quản đó, đây là hoàng đản do tổn thương gan (còn gọi là hoàng đản trong gan). Nguyên nhân có thể là:
Nhiễm virut: Viêm gan do virut.
Nhiễm vi khuẩn,nhất là xoắn khuẩn.
Nhiểm khuẩn máu.
Nhiễm độc: Photpho, thuỷ ngân, plegomazin, atophan, DDS.
Cản trở cơ giới trên hệ thống dẫn mật trong hoặc ngoài gan: Làm cho mật không xuống được ống tiêu hoá ứ lại trong gan và thấm vào máu làm tăng bilirubin máu, gây hoàng đản: đấy là hoàng đản tắc mật (còn gọi là hoàng đản sau gan). Nguyên nhân có thể là:
Sỏi: Thông thưởng nhất.
Ung thư: Ung thư ống mật chủ, ung thư ống Vater và nhất là ung thư đầu tuỵ.
Viêm xơ cứng: Viêm xơ cứng cơ Oddi.
Hạch ở ngoài đè vào ống mật chủ: Hạch quanh cuống gan, di căn của ung thư nơi khác đến hoặc khối u của chính bản thân gan đè vào đường dẫn mật.
Các nguyên nhân gây ra ba loại hoàng đản có khác nhau:
Về đặc tính lâm sàng.
Về các triệu chứng thực thể.
Các triệu chứng toàn thân kèm theo.
Cũng như về các xét nghiệm cận lâm sàng.
Cho nên trước một người bệnh hoàng đản, chúng ta cần phải tiến hành việc khám bệnh theo một trình tự nhất định.
Cách khám lâm sàng hoàng đản
Cần chú ý tới một số yếu tố:
Tính chất của hoàng đản
Mức độ hoàng đản. Nhiều hay ít, nhận định chắc chắn và cụ thể nhất bằng định lượng bilirubin máu. Mức độ hoàng đản không có gái trị phân biệt hoàng đản do tổn thương gan hay do cản trở cơ giới hệ thống dẫn mật. Cản trở cơ giới làm tắc hoàn toàn cò thể gây hoàng đản nhềiu, nếu chỉ tắc ít thì chỉ gây hoàng đản nhẹ, tổn thương gan cũng vậy. Tuy vậy mức hoàng đản có thể giúp phân biệt hai loại trên với hoàng đản tan máu, trong bệnh tan máu, hoàng đản thường rất kín đáo, người bệnh xanh xao nhiều hơn là vàng.
Màu sắc hoàng đản: Có thể vàng sẫm hay vàng nhạt tùy theo mức độ hoàng đản, nhưng thường:
Vàng rực, vàng đỏ trong viêm gan do xoắn khuẩn.
Vàng nhạt kết hợp với xanh xao trong hoàng đản tan máu.
Diễn biến của hoàng đản. Nếu đã tái phát nhiều lần trong tiền sử, thường dễ làm nghĩ đến làm nghĩ đến hoàng đãn tắc mật do sỏi.
Nhưng nếu người bệnh mới bị lần này là lần đầu tiên thì cần theo dõi diễn biến.:
Trong hoàng đản do tổn thương gan (virut, xoắn khuẩn, hay nhiễm độc): Hoàng đản xuất hiện, tăng lên dần dần trong một hai tuần, rồi bớt dần để khỏi hẳn trong một tháng, nếu không có biến chứng gì xảy ra trong quá trình diễn biến bệnh. Và tất nhiên không tái phát sau này.
Nếu hoàng đản tắc mật: Diễn biến có khác nhau tuỳ theo nguyên nhân gây tắc.
Nếu tắc mật do sỏi, hoàng đản tăng lên rồi bớt dần, có thể khỏi hẳn để rồi tái phát lại sau này khi viên sỏi khác đi xuống gây tắc mật lại. Trái lại nếu tắc mật do u, hoàng đản cứ tăng lên mãi, không bao giờ bớt.
Trong hoàng đản tan máu người bệnh thường có những đợt vàng nhợt kết hợp với xanh xao song song với những đợt tan máu.
Biểu hiện toàn thân kèm theo
Hai yêu tố chính cần để ý hỏi hoặc tìm:
Sốt:
Thường không có trong:
Tắc mật do u.
Tổn thương gan do nhiễm độc.
Bao giờ cũng có mức độ và tính chất khác nhau tuỳ theo các nguyên nhân dưới đây:
Viêm gan do virút: Có thể chỉ sốt ít: (37,5 – 38 độ C), thậm chí có khi không sốt, người bệnh chỉ mệt mỏi, biếng ăn rồi hoàng đản. Nhưng cũng có thể sốt nhiều (39 – 40 độ C). Có khi kèm theo mê sảng trong các trường hợp viêm gan nặng do virut, thường tiên lượng rất xấu. Sốt có thể chỉ sốt nóng, hoặc gai gai rét, cũng có khi rét run nhưng nhiệt độ thường không giao động theo hình tháp. Trong công thức máu số lượng bạch cầu và đa nhân trung tính không tăng.
Viêm gan do xoắn khuẩn: Bao giờ cũng sốt và sốt rất cao (39 – 40 độ C) kèm theo mê sảng.
Đường nhiệt độ cũng thường theo hình cao nguyên và trong công thức máu số lượng bạch cầu và đa nhân trung tính rất tăng.
Hoàng đản tắc mật do sỏi: Phần nhiều đều kèm theo sốt do viêm mật quản.
Đường biểu diễn nhiệt độ rất gợi ý: Dao động theo hình tháp, mỗi ngày có thể vài ba cơn, hoặc một vài ngày lại một cơn rét run rồi nhiệt độ lên cao sau ba giờ lại xuống lại cho đến khi một cơn rét run và sốt khác xảy đến (sốt nhiễm khuẩn đường mật). Tất nhiên số lượng bạch cầu và bạch cầu đa nhân trung tính cũng tăng nhiều.
Hoàng đản tan máu: Có thể kèm theo sốt ít hoặc nhiều do những cơn tan máu. Bạch cầu bình thường, nhưng hồng cầu giảm nhiều.
Đau hạ sườn phải:
Với tính chất một cơn đau quặn gan (đau hạ sườn phải dữ dội, xuyên qua vai hoặc lên sau lưng, có thể kéo dài vài giờ, tái phát nhiều lần trong ngày hoặc trong tiền sử đã có nhiều lần bị đau) là một yếu tố rất có giá trị để chẩn đoán tắc mật do sỏi. Trong trường hợp điển hình cơn đau quặn gan có đầy đủ tính chất trên, gợi ý ngay chẩn đoán, nhưng cũng có khi cơn đau không dữ dội, làm cho người bệnh ít chú ý đến, thầy thuốc cần phải hỏi kỹ người bệnh mới phát hiện được.
Tuy cơn đau quặn gan và sốt rét run là triệu chứng gần như đặc hiệu của sỏi mật, nhưng cũng có khi cả hai yếu tố này có trong viêm gan cho nên vấn đề quan trọng không phải ở chỗ có hay không có các yếu tố đó mà là sự tuần tự xuất hiện trong thời gian của chúng.
Trong tắc mật do sỏi, thường có một trình tự nhất định: cơn đau quặn gan sau đó sốt rét run, rồi 1, 2 ngày sau xuất hiện hoàng đản.
Trái lại trong viêm gan, thường khởi pát bằng sốt sau đó vài ba ngày hoặc một tuần mới xuất hiện hoàng đản. Thường không kèm theo cơn đau quặn gan, người bệnh chỉ thấy ở hạ sườn phải nhiều hay ít, có khi ngay từ lúc xuất hiện sốt nhưng cũng có khi sau ngày xuất hiện hoàng đản.
Ngoài hai yếu tố chính nói trên, cần phải phát hiện thêm các triệu chứng:
Ngứa:
Ngứa khá nhiều, người bệnh phải gãi luôn, có khi suốt đêm làm người bệnh mất ngủ, và thường để lại những vết gãi trên da. Ngứa là một triệu chứng thường có trong tắc mật, nhất là mật tắc lâu ngày.
Phân bạc màu trắng như cứt cò:
Thầy thuốc cần trực tiếp xem phân người bệnh mới chắc chắn, không nên tin vào lời khuyên của họ, vì người bệnh bị hoàng đản nếu ỉa phân trắng cứ nghĩ là vàng, do mắt bị hoàng đản nên nhìn cái gì cũng vàng cả. Đây cũng là một triệu chứng đặc hiệu của tắc mật nhưng cần nhớ là:
Nó chỉ có trong tắc mật hoàn toàn. Nếu tắc mật không hoàn toàn, phân vẫn có thễ vàng, cho nên không thể loại được hoàng đản tắc mật nếu thiếu phân bạc màu.
Nó chỉ có giá trị đặc hiệu cho tắc mật nếu kéo dài hoặc tái phát nhiều lầ vì trong viêm gan giai đoạn đầu, phân người bệnh có thể bạc màu nhưng chỉ vài ngày là vàng trở lại.
Chảy máu dưới da và niêm mạc:
Là những triệu chứng thường có trong viêm gan nặng, nhất là viêm gan do xoắn khuẩn.
Triệu chứng thực thể kèm theo
Hai yếu tố cần đặc biệt chú ý đến là gan và túi mật:
Gan
Gan to là một triệu chứng thực thể rất có giá trị chẩn đoán hoàng đản tắc mật, thường to quá bờ sườn 4-5m, có khi nhiều hơn nữa, bờ tròn, mật độ mềm, ấn hơi tức, giống như gan tim: nếu tắc mật đã lâu ngày, mật độ gan có thể hơi chắc.
Trong viêm gan hoặc tan máu, gan thường không sờ thấy hay chỉ mấp mé ra khỏi bờ sườn một ít, mật độ lúc đầu mềm, sau trở nên hơi chắc, bờ thường sắc cạnh.
Túi mật
Trong hoàng đản, túi mật to là một triệu chứng đặc hiệu của tắc mật, nhất là tắc mật do u. Nó xuất hiện rất sớm trong các ung thư đầu tuỵ hoặc ung thư ống mật chính, có khi có trước cả hoàng đản. Theo Courvoisier Terria, túi mật to chỉ trong tắc mật do u,trái lại túi mật không sờ thấy hoặc teo lại trong tắc mật do sỏi; nhưng trên thực tế nhất là ở nước ta, định luật đó thường không đúng; chúng tôi vẫn gặp những trường hợp tắc mật do sỏi mà có túi mật to, nhất là ở những người bệnh mới bị tắc mật 1-2 lần đầu.
Trong viêm gan và tan máu, túi mật đều không to.
Trên đây là hai triệu chứng đặc biệt quan trọng bao giờ cũng phải tìm kỹ ngoài ra còn phải chú ý phát hiện thêm lách to.
Lách to
Người bệnh hoàng đản, sự có mặt của lách to đề ra một số vấn đề, có thể là:
Hoàng đản tan máu; cùng với hoàng đản nhẹ, người bệnh có thêm lách hơi to,mấp mé bờ sườn.
Lách to do sốt rét, sẵn có trên người bệnh bị hoàng đản do viêm gan hay do tắc mật, do sỏi hoặc u.
Nhưng cũng có thể là lách to trong bệnh đặc biệt về gan mật, bệnh Hanot còn gọi là bệnh xơ gan ứ mật tiền phát.
Khám lâm sàng người bệnh hoàng đản bao giờ cũng kết thúc bằng thông tá tràng.
Thông tá tràng
Nếu có 3 loại mật A, B, C ta loại trừ tắc mật:
Nếu chỉ có một thứ mật chảy ra, cần kiểm tra kỹ hơn bằng thông tá tràng định phút để loại trừ các nguyên nhân do rối loạn vận động đường mật. Nếu bằng thông tá tràng định phứt, mà ta vẫn không có đủ ba thứ mật, rất có khả năng là tắc mật.
Với cách khám lâm sàng nói trên, nhận định đúng đắn giá trị và nhất là trình tự xuất hiện của các triệu chứng, chúng ta có thể sơ bộ chẩn đoán được đúng nguyên nhân của hoàng đản. Vai trò của các thăm dò cận lâm sàng có tác dụng xác định thêm chẩn đoán lâm sàng, và trong những trường hợp gặp khó khăn sẽ cung cấp thêm một số yếu tố để cùng lâm sàng giải quyết chẩn đoán.
Các phương pháp cận lâm sàng
Ngoài các xét nghiệm huyết học cần phải làm và cần phải làm khi nghĩ đến hoàng đản tan máu mà chúng tôi chỉ nêu ra chứ không nói kỹ ở đây như:
Bilirubin máu trực tiếp và gián tiếp.
Huyết và tuỷ đồ.
Sức bền hồng cầu.
Nghiệm pháp Coombs trực và gián tiếp.
Trước một người bệnh bị hoàng đản do bệnh gan mật ( việc hoặc tắc) người ta thường tiến hành từng bước các thăm ò cận lâm sàng ưới đây:
Xét nghiệm sinh hoá học
Trong hoàng đản do viêm gan, thường nổi bật các hội chứng sinh hoá:
Suy tế bào gan.
Viêm tổ chức liên kết.
Huỷ hoại tế bào gan.
Trong hoàng đản do tắc mật, các hội chứng sinh hoá mói trên thường không có hoặc rất kín đáo, nhưng hội chứng sinh hoá về tắc mật lại rất rõ ràng.
Các hội chứng sinh hoá học rất có giá trị giúp ta phân loại hoàng đản như trên chúng tôi đã trình bày, nhưng giá trị đó chỉ rõ ràng trong thời gian đầu của hoàng đản; nếu hàong đản đã kéo dài vài ba tháng, thường có thêm các tổn thương phối (ví dụ: hoàng đãn tắc mật sau một thời gian dài thường có thêm tổn thương nhu mô gan và phản ứng và phản ứng tổ liên kết) làm các hội chứng sinh hoá lẫn lộn nhau, cả hội chứng tắc mật lẫn các hội chứng khác, làm cho việc nhân định thêm khó khăn.
Chính trong những trường hợp khó khăn đó nghĩa là các hoàng đản kéo dài mà lâm sàng và sinh hoá chưa giải quyết được chẩn đoán, chúng ta cần sử dụng soi ổ bụng.
Soi ổ bụng
Nhờ nhìn được màu sắc của gan, mà phân biệt được hoàng đản do viêm gan hay do tắc mật:
Trong viêm gan,gan thường đỏ (thời kz đầu), sau nhợt dần và bao phủ bởi một lớp fibrin trắng, mỏng.
Trong tắc mật, gan to có bờ tròn và nhất là có nhiều lốm đốm xanh mật trên gan.
Nhờ nhìn được bằng mắt, nên có thể nhận định được chắc chắn tình trạng túi mật: phát hiện túi mật to mà lâm sàng sờ có thể bỏ qua, sự phát hiện túi mật to ở một gan ứ mật có giá trị chẩn đoán địa điểm tắc.
Túi mật to: Tắc ở ống mật chủ.
Túi mật xẹp: Tắc ở ống gan hay tắc ở trong gan.
Có trường hợp hình ảnh soi ổ bụng không được rõ rệt để giúp ta phân biệt chắc chắn hoàng đản do viêm gan với tắc mật, cần phải bổ sung thêm bằng phương pháp giải phẫu bệnh học.
Xét nghiệm giải phẫu bệnh học
Bằng sinh thiết gan trong khi soi ổ bụng hoặc sinh thiết mù nếu không có điều kiện soi ổ bụng.
Tất nhiên việc sinh thiết gan phải tôn trọng các chống chỉ định đã nêu ra trong bài “các phương pháp thăm do cận lâm sàng về gan mật”, cụ thể ở đây là các trường hợp mà lâm sàng đã rõ là tắc mật hoặc khi soi ổ bụng đã thấy rõ gan to xanh ứ mật.
Phương pháp x quang
Chỉ cần đến khi đã xác định là hoàng đản tắc mật vì chỉ có tác dụng chẩn đoán nguyên nhân tắc mật, cần kiểm tra:
Hệ thống dẫn mật và túi mật: Phát hiện sỏi bằng chụp túi mật thường chụp túi mật có cản quang bằng uống hay tiêm tĩnh mạch.
Hệ thống tá tràng tuỵ tạng: Phát hiện các u đầu tuỵ hoặc u nóng Vater bằng chụp dạ dày tá tràng (khung tá tràng) và nhất là chụp ta 1tràng giảm trương lực.
Các phương pháp khác
Trong hoàn cảnh thiếu phương tiện để sinh thiết gan soi ổ bụng hoặc thể trạng người bệnh suy kém, có rối loạn chảy máu nhiều không cho phép ta áp dụng hai phương pháp trên, chúng ta có thể áp dụng phương pháp điều trị thử.
Coctizon là một loại chống viêm nhiễm. Coctizon áp dụng trên người bệnh hoàng đản thường làm bớt nhanh và nhiều hoặc hết hẳn hoàng đản nếu hoàng đản do viêm gan, trái lại ít kết quả trong hoàng đản tắc mật.
Mặc dù các phương pháp thăm dò gan mật ngày càng tiến bộ giúp cho sự chẩn đoán nguyên nhân hoàng đản được chắc chắn hơn, tuy vậy cũng còn những trường hợp mà chẩn đoán nguyên nhân chưa được rõ rệt và lúc đó bắt buộc phải phẫu thuật thăm dò, thường áp dụng nhất trong những trường hợp hoàng đản tắc mật rõ mà bằng các phương pháp trên chưa xác định được chắc chắn nguyên nhân gây tắc. Nhưng phẫu thuật thăm dò nếu không xác định ngay
được nguyên nhân thì cần phải kết hợp với đo áp lực hệ thống dẫn mật và chụp hệ thống dẫn mật trong hoặc sau khi mổ để phát hiện các sỏi mật ẩn ở những nơi kín đáo trong gan và các tổn thương xơ cứng (viêm xơ cứng Oddi) có thể làm cản trở sự lưu thông mật.
Chẩn đoán nguyên nhân
Trường hợp hoàng đản thiên nhiên, lách to do tan máu:
Người bệnh thường đến với chúng ta không phải vì hoàng đản mà vì thiếu máu mà thường chúng ta cũng dễ nghĩ đến vì:
Người bệnh xanh nhiều hơn là vàng.
Lách to.
Công thức máu chứng tỏ thiếu máu.
Các thăm dò chức năng gan đều bình thường.
Trái lại, các thăm dò huyết học về tan máu lại dương tính.
Còn trong các trường hợp hoàng đản do bệnh gan mật, người bệnh thường đến với chúng ta vì hoàng đản rõ hoặc lúc đầu hoàng đản kím đáo nhưng sẽ rõ dần sau 1-2 ngày. Chúng ta có thể vận dụng cách khám lâm sàng và các phương pháp thăm ò nói trên để chẩn đoán nguyên nhân mà dưới đây chúng tôi sắp xếp thành ba loại chính theo triệu chứng thực thể.
Hoàng đản không có gan to (hoặc gan chỉ mấp mé bờ sườn):
Tất cả các loại viêm gan:
Do virus.
Do xoắn khuẩn: viêm gan thường kèm theo viêm thận biểu hiện bằng anbumin, trụ niệu và urê máu cao.
Do nhiễm khuẩn huyết do bởi các vi khuẩn khác.
Do nhiễm độc.
Hoàng đản có gan to không có túi mật to:
Không kèm lách to:
Hoàng đản tắc mật do: Sỏi (thông thường nhất). U trong gan (ung thư gan kiểu nhẫn) hoặc u ở rốn gan.
Có kèm theo lách to (Hội chứng Hanot):
Các hoàng đản tắc mật nói trên nhưng xảy ra ở một người sẵn có lách to do số rét.
Bệnh Hanoi còn gọi là xơ gan ứ mật tiên phát: cần phải xác định chắc chắn bằng phẫu thuật thăm dò không thấy cản trở cơ giới trên hệ thống dẫn mật, nhất là không thấy sỏi mới được đặt chẩn đoán này.
Hoàng đản có gan to và túi mật to:
Chắc chắn là túi mật.
Thông thường nhất do u: Nên nghĩ ngay đến, nếu bệnh cảnh này xảy ra ở một người lớn tuổi, một cách lặng lẽ âm thầm, không kèm theo sốt, không kèm theo đau bụng gan.
Cũng có khi do sỏi. Cần phải kiểm tra kỹ để xác định hoặc loại trừ sỏi mật nếu bệnh cảnh xảy đến rầm rộ với cơn đau bụng gan và hội chứng nhiễm khuẩn đường mật.
Trong cách sắp xếp chẩn đoán nguyên nhân nói trên, chúng tôi không đến tình huống “có hoặc không có cổ trướng“ vì sự có mặt của cổ trướng trên căn bản không làm thay đổ chẩn đoán nguyên nhân mà chúng tôi đã nêu ra vì cổ trướng chỉ chứng tỏ:
Một tình trạng suy gan và tăng áp lực cửa đều có thể gặp trong hoàng đản do viêm gan hoặc do tắc mật lâu ngày.
Hoặc một phản ứng màng bụng do một khối u ở gan hay đầu tuỵ.
Bài viết cùng chuyên mục
Ỉa chảy cấp, mạn tính
Ỉa chảy là một triệu chứng do rất nhiều nguyên nhân phức tạp gây nên, muốn nắm được các nguyên nhân đó, cần phải biết sự hoạt động bình thường của quá trình tiêu hoá.
Hội chứng rối loạn thần kinh tự chủ
Hệ thần kinh tự chủ làm nhiệm vụ thiết lập các tác động giữa cơ thể và môi trường, đặc biệt là điều hoà các quá trình hoạt động bên trong cơ thể. Hệ thần kinh tự chủ có hệ thần kinh giao cảm và phó giao cảm.
Hiện tượng chảy sữa: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Bình thường, prolactin kích thích vú và các tuyến sữa phát triển, đồng thời (cùng với oxytocin) kích thích tiết sữa ở giai đoạn sau sinh. Ngoài ra, oestrogen và progesterone cũng cần cho sự phát triển của vú.
Nghiệm pháp Finkelstein: tại sao và cơ chế hình thành
Chấn thương lặp đi lặp lại hoặc các rối loạn viêm làm viêm, dẫn đến sưng mặt quay cổ tay, thu hẹp không gian mà gân cơ dạng dài ngón cái, cơ duỗi ngắn ngón cái đi qua.
Phản xạ mũi mi (dấu hiệu Myerson): dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Dấu hiệu Myerson được mô tả ở người bình thường. Sự phổ biến khác nhau đáng kể giữa các nghiên cứu. Dấu hiệu Myerson cũng thường gặp trong bệnh Parkinson.
Bàn tay gió thổi: tại sao và cơ chế hình thành
Bàn tay gió thổi là một triệu chứng điển hình của viêm khớp dạng thấp và có ý nghĩa phân biệt với các viêm xương khớp khác. Giá trị chuẩn đoán còn hạn chế do xuất hiện muốn, như ngón tay cổ ngỗng.
Chẩn đoán gan to
Đối với những trường hợp gõ khó xác định như khi lồng ngực dày, gan đổ ra phía sau, tràn dịch màng phổi phải, lúc này cần dùng x quang để xác định bờ trên của gan.
Biến đổi hình thái sóng: sóng y xuống lõm sâu (dấu hiệu Friedrich)
Sóng y xuống lõm sâu xảy ra trong khoảng 1/3 bệnh nhân bị viêm màng ngoài tim co thắt và 2/3 bệnh nhân bị nhồi máu thất phải, mặc dù chưa được nghiên cứu nhiều và nó cũng thường khó thấy trên lâm sàng.
Yếu cơ gốc chi trong bệnh nội tiết: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Triệu chứng này xuất hiện ở 60-80% bệnh nhân cường giáp, ngoài ra nó cũng xuất hiện trong nhiều bệnh lý nội tiết và các rối loạn khác. Hiếm khi yếu cơ gốc chi là biểu hiện đầu tiên của bệnh cường giáp.
Tổn thương Janeway: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Tổn thương Janeway có giá trị giới hạn của một dấu hiệu, chỉ gặp ở 4–10% bệnh nhân viêm nội tâm mạc nhiễm trùng. Nếu xuất hiện, cần tầm soát thêm các dấu hiệu khác của viêm nội tâm mạc nhiễm trùng.
Hội chứng ống cổ tay
Hội chứng ống cổ tay được James Paget mô tả từ giữa thế kỷ 18. Đây là một rối loạn thần kinh ngoại vi thường gặp nhất, khoảng 3% người trưởng thành ở Mỹ có biểu hiện hội chứng này.
Phủ nhận không gian bên bệnh: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Hội chứng phủ nhận bên bệnh có giá trị định khu ở bán cầu không ưu thế. Nguyên nhân hay gặp nhất của hội chứng phủ nhận một bên là tổn thương vùng thái dương - đỉnh của bán cầu không ưu thế.
Đồng tử Argyll Robertson và phân ly ánh sáng nhìn gần: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Đồng tử Argyll Robertson cổ điển là dấu hiệu của giang mai kỳ ba. Giang mai kỳ ba đã từng là nguyên nhân thường gặp nhất của phân ly ánh sáng nhìn gần.
Rung thanh: nguyên nhân và cơ chế hình thành
Rung thanh và tiếng vang thanh âm là hai dấu hiệu được dạy nhiều nhưng chúng không được sử dụng nhiều trên lâm sàng. Một nghiên cứu ở bệnh nhân tràn dịch màng phổi cho thấy sự hữu dụng của chúng trong chẩn đoán.
Hội chứng phế quản
Tổn thương viêm cấp hoặc mạn tính của phế quản hay xảy ra nhất ở phế quản lớn và trung bình, nhiều khi cả ở trong khí quản. Nếu tình trạng viêm đó đến nhanh và sớm kết thúc sau vài ngày, thì gọi là viêm cấp, nếu kéo dài nhiều năm gọi là viêm mạn tính.
Thăm dò hình thái quang học thận
X quang thận là một loại phương pháp được áp dụng phổ biến nhất và có giá trị lớn để thăm dò hình thái của thận. Ngày nay có nhiều phương pháp khác nhau.
Triệu chứng cơ năng tiêu hóa
Triệu chứng chức năng, đóng một vai trò rất quan trọng, trong các bệnh về tiêu hoá, dựa vào các dấu hiệu chức năng, có thể gợi ý ngay cho ta chẩn đoán.
Thăm khám bộ máy vận động
Các bệnh về cơ tuy hiếm gặp so với các bệnh nội khoa khác, nhưng cũng không phải là hoàn toàn không gặp trong lâm sàng. Thực tế ở Việt Nam, hầu hết các bệnh về cơ đã được gặp với một số lượng không phải là ít.
Barre chi trên: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Khi loại bỏ tầm nhìn, các neuron vận động yếu sẽ làm chi rơi xuống. Cánh tay rơi sấp có độ nhạy cao hơn so với sử dụng test cơ lực đơn độc để xác định yếu các neuron vận động.
Run tay parkinson: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Cơ chế run parkinson chưa rõ. Các kích thích có tính đồng bộ và nhịp điệu của các neuron trong nhân dưới đồi và nhân cầu nhạt trong có sự liên hệ với chứng run của bệnh nhân Parkinson và của những con khỉ được dùng MPTP.
Biến đổi hình dạng sóng tĩnh mạch cảnh: sóng a nhô cao
Sóng a nhô cao xảy ra trước kì tâm thu, không cùng lớn động mạch cảnh đập và trước tiếng T1. Sóng a đại bác xảy ra trong kì tâm thu, ngay khi động mạch cảnh đập và sau tiếng T1.
Tổn thương móng do vẩy nến: tại sao và cơ chế hình thanh
Vẩy nến là bệnh do bất thường của hệ miễn dịch. Sự đáp ứng quá mức của tế bào T làm tăng sinh bất thường một lượng tế bào T trên da và kích hoạt giải phóng các cytokin.
Hội chứng xuất huyết
Xuất huyết là một hội chứng bệnh lý gặp ở nhiều chuyên khoa như Xuất huyết dưới da hay gặp ở nội khoa, truyền nhiễm, xuất huyết dạ dày gặp ở khoa tiêu hoá; rong kinh.
Băng ure (Uremic frost) trong bệnh nội tiết: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Trong suy thận không được điều trị, nồng độ ure máu tăng cao đến mức trong mồ hôi cũng xuất hiện ure. Sự bay hơi bình thường của mồ hôi cộng với nồng độ ure cao đưa đến kết quả là sự kết tinh và lắng đọng tinh thể ure trên da.
Yếu cơ ức đòn chũm và cơ thang (Liệt thần kinh phụ [CNXI])
Liệt thần kinh phụ hầu hết là do tổn thương thần kinh ngoại biên thứ phát sau chấn thương hoặc do khối u. Liệt thần kinh phụ có thể không ảnh hưởng đến cơ ức đòn chũm vì các nhánh tới cơ này tách sớm ra khỏi thân chính của dây thần kinh.