- Trang chủ
- Sách y học
- Các bài thuốc đông y hiệu nghiệm
- Kim quỹ thận khí hoàn
Kim quỹ thận khí hoàn
Bài này dùng phụ, quế làm thuốc chủ là phương thuốc bổ thận được ứng dụng sớm nhất. Lục vị địa hoàng hoàn và các loại Địa hoàng hoàn khác đều từ bài thuốc này biến hóa ra.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Thành phần
1. Thục địa 8 lạng.
2. Sơn dược 4 lạng.
3. Sơn thù 4 lạng.
4. Trạch tả 3 lạng.
5. Phục linh 3 lạng.
6. Đan bì 3 lạng.
7. Quế chi 1 lạng.
8. Phụ tử 1 lạng.
Cách dùng
Liều lượng nói trên dùng làm thuốc hoàn nếu chuyển thành thuốc thang thì liều lượng tham khảo tỷ lệ mà linh hoạt gia giảm. Cách dùng thuốc hoàn ngày 12-16 gam, chia 2 lần uống.
Công dụng
Ôn bổ thận dương.
Chữa chứng bệnh
Thận dương không đủ, lưng gối đau lạnh, bụng vặn đau, tiểu tiện không lợi hoặc không kiềm chế được, ban đêm tiểu tiện nhiều và các hiện tượng thận dương hư suy như ho đờm, tiêu khát, thủy thũng, đi tả lâu ngày.
Giải bài thuốc
Bài này dùng phụ, quế làm thuốc chủ là phương thuốc bổ thận được ứng dụng sớm nhất. Lục vị địa hoàng hoàn và các loại Địa hoàng hoàn khác đều từ bài thuốc này biến hóa ra. Mục đích bài này là ôn bổ thận dương mà trong bài dùng Địa hoàng, Sơn thù là thuốc âm thì thận âm và thận dương đều có quan hệ với nhau tức là “âm dương cùng gốc”, “khéo bổ dương tất phải trong âm cầu dương”.
Phụ phương
Phụ quế bát vị hoàn:
Tức bài này dùng Nhục quế thay Quế chi, ngày xưa không phân biệt Quế chi với Nhục quế, đời sau mới phân biệt vận dụng vì vậy mới định bài riêng là Phụ quế bát vị hoàn, cả 2 bài thuốc đều là ôn bổ thận dương là phương pháp điều trị “Ích hỏa nguyên để tiêu âm hàn” nhưng có sự khác nhau trong sự giống nhau, Quế chi giỏi thông dương, tính của nó chạy mà không giữ lại cho nên với các chứng thủy ẩm đình tụ, thủy thấp tràn lan, khí huyết ngưng trệ nên dùng Quế chi là hơn, Nhục quế giỏi nạp khí, dẫn hỏa quy nguyên, tính nó giữ lại mà không chạy cho nên nếu mệnh môn hỏa suy mà hư hỏa Thượng phù, thận không nạp khí mà thở gấp ra và hạ tiêu hư hàn thì dùng Nhục quế là hay.
Tế sinh thận khí hoàn:
Tức Phụ quế bát vị hoàn gia Ngưu tất, Xa tiền tử thì tác dụng ôn dương lợi thủy, tiêu thủy mạnh hơn.
Bài viết cùng chuyên mục
Ngô thù du thang
Chữa chứng bệnh Vị khí hư hàn, can vị bất hòa, nôn khan, nôn ra dãi hoặc nước chua, bụng hông đầy đau, hoặc đau đầu, lưỡi không hồng, không nhiệt.
Cam toại thông kết thang
Tính chất bài thuốc có thể chia làm 3 bộ phận: Hoạt huyết, hành khí, công hạ. Đào nhân, Xích thược, Ngưu tất dùng để hoạt huyết khử ứ.
Hoàng liên a giao thang
Phương này dùng cầm, liên giáng hỏa; Kê tử hoàng, Bạch thược, A giao dưỡng âm huyết. Đối với chứng âm hư hỏa vượng nặng gây mất ngủ dùng phương này rất có hiệu quả.
Tiểu kiến trung thang
Thược dược tăng hàm lượng lên hợp với Quế chi mà điều hòa vinh vệ có thờ làm mềm (nhu) tạng can, hòa doanh huyết mà khối đau bụng.
Xuy nhị hồng miên tán
Dùng bông thuốc lau sạch lỗ tai, rồi cho bột thuốc này vào. Ngày 2 đến 3 lần. Công dụng: Bài nùng tiêu thũng, giảm đau giảm ngứa.
Đạo đàm thang
Nhị trần gia Chỉ thực hạ khí giáng nghịch, Nam tinh sưu phong khứ đàm, nên dẫn được đàm xuống, để trị phong đàm Thượng nghịch.
Tả quy hoàn
Bài này từ Lục vị địa hoàng hoàn biến hóa ra không dùng Đan bì lương huyết tả hỏa và Phục linh, Trạch tả khô thấm lợi thủy mà dùng Thỏ ty.
Đại sài hồ thang
Bài này là Tiểu sài hồ thang bỏ Nhân sâm, Cam thảo gia Đại hoàng, Chỉ thực, Thược dược mà thành, kết hợp giữa hòa giải và hoãn hạ, có tác dụng sơ giải, hòa lý, tiết nhiệt, tiêu đạo.
Thanh tỳ ẩm
Chủ trị chữa các loại sốt rét lên cơn có giờ nhất định, biểu hiện nóng nhiều rét ít, ngực đầy, nôn ọe, miệng đắng, tâm phiền, mạch huyền hoạt, rêu lưỡi vàng nhớt, các chứng thấp nhiệt.
Tăng dịch thang
Bài này nguyên chữa do nhiệt bệnh mà hao tổn tân dịch dẫn đến đại tiện bí kết khác với bài Thừa khí thang công hạ, thích hợp với chứng.
Chi tử cổ thang
Bài thuốc này dùng Chi tử khổ hàn để tả hỏa, giải nhiệt trừ phiền ghép với Đậu cổ để xua tà giải nhiệt nên có tác dụng tán tà ở biểu, tiết nhiệt ở lý.
Ôn kinh thang
Trước đây, người ta cho phương này là tễ tiêu biểu cho các thứ thuốc điều kinh, phần nhiều gia giảm vận dụng cốt đạt và pháp, không câu nệ vào phương.
Đại bán hạ thang
Bụng ngực đầy chướng, đại tiện bí có thể gia Chỉ thực, Hậu phác, Binh lang để tăng thêm tác dụng khoan trung lý khí, đạo trệ, phát kết.
Vị kinh thang
Đây là phương thuốc cổ đại trị bệnh phế ung (abces du poumon), nhưng sức thanh nhiệt giải độc e rằng còn thiếu. Nếu chỉ dùng bài này mà chữa, hiệu quả không cao.
Cam lộ tiêu độc đan
Bài này dùng Hoắc hương, Khấn nhâm, Thạch xương bồ để hóa thấp, dùng Hoạt thạch, Nhân trần, Mộc thông để lợi thấp, dùng Hoàng cầm, Xạ can, Liên kiều để thanh nhiệt giải độc.
Sài cát giải cơ thang
Bài này lấy Cát căn, Sài hồ để tân tán thanh nhiệt và lấy Khương hoạt để tân ôn phát biểu nhằm giải tỏa biểu tà để người và xương khỏi đau.
Đại hoàng giá trùng hoàn
Phương này chữa huyết khô nội kết thể hư mà trạng thực, ứ huyết không ra thì tân huyết không sinh, bổ cũng không ích gì.
Tang cúc ẩm
Trong thuốc thanh nhiệt chỉ dùng Liên kiều mà chưa dùng Ngân hoa thì tác dụng thanh nhiệt cũng yếu; về thuốc thông phế ghép.
Các loại bài thuốc đông y và cách dùng
Đem vị thuốc tán nhỏ ra, rồi dùng mật hoặc hồ ngào với bột thuốc viên lạii gọi là thuốc viên (hoàn). Khi dùng thuận tiện nhưng vì trong thuốc có cả bã nên hấp thu chậm, thường dùng chữa bệnh thư hoãn.
Hoàng liên thang
Bài này là cách biến hóa của tiểu Sài hồ thang. Chủ trị chức năng tràng vị rối loạn, hàn nhiệt xen kẽ. Nhiệt thì ngực phiền nhiệt mà gây nôn, hàn thì bụng đau, bụng sôi mà đi tả.
Đại hoàng mẫu đơn thang
Chứng Trường ung, theo y học của Tổ quốc cho rằng do nhiệt độc ủng kết trong ruột, huyết ứ không tán mà thành bệnh. Bản phương dùng Đại hoàng thanh nhiệt giải độc, tả hỏa.
Chỉ truật hoàn
Bài này dùng Bạch truật kiện tỳ, Chỉ thực tiêu đầy chướng nhưng liều lượng Bạch truật gấp đôi Chỉ thực.
Xuyên khung trà điều tán
Đặc điểm của phương này là tập trung nhiều loại thuốc khu phong tán hàn, lấy sự tán phong tà để chữa nhức đầu.
Miết giáp tiễn hoàn
Các vị nghiền thành bột, lấy một ít đất lòng bếp lẫn tro đang nóng đổ rượu vào để tro hút rượu độ nửa giờ, rồi nướng Miết giáp vào đó. Xong đem hòa với thuốc làm hoàn. Mỗi ngày 3 lần. Mỗi lần 4 gam nuốt, hoặc dùng 20 gam thuốc ấy sắc uống.
Hoắc hương chính khí tán
Cảm phải thử thấp, ngoài sợ lạnh phát sốt đau đầu (biểu chứng), trong thì ngực sườn đầy tức lợm lòng kém ăn, hoặc ỉa chảy, miệng nhạt miệng ngọt, rêu nhớt là do thấp trọc gây trở ngại.