- Trang chủ
- Sách y học
- Tâm lý học và lâm sàng
- Rối loạn cảm xúc theo mùa hành vi dị thường
Rối loạn cảm xúc theo mùa hành vi dị thường
Chỉ có số ít những người có các triệu chứng trầm trọng, kéo dài qua cả mùa đông mới được chẩn đoán là SAD
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Mãi đến giữa những năm 1980, rối loạn cảm xúc theo mùa ( SAD - seasonal affective disorder) mới được nhìn nhận là một rối loạn riêng biệt. (Rosenthal và cs. 1984). DSM-IV-TR (APA 2000) đã mô tả rối loạn này với những đặc điểm sau:
Mối quan hệ thời gian có tính quy luật giữa sự khởi phát một pha trầm cảm và một khoảng thời gian cụ thể trong năm.
Bệnh hoàn toàn thuyên giảm trong những khoảng thời gian nhất định của năm.
Trong 2 năm trước đó phải có 2 pha trầm cảm chủ yếu (đảm bảo những tiêu chí nói trên) diễn ra.
Số lượng các pha trầm cảm theo mùa nhiều hơn số lượng các pha trầm cảm không theo mùa.
Các đặc điểm của SAD có vẻ hoàn toàn khác với trầm cảm chủ yếu và bao gồm tăng cảm giác ngon miệng thèm ăn các chất bột, tăng cân, ngủ nhiều, cũng như các triệu chứng trầm cảm khác. Đặc thù của các cơn mùa đông là bắt đầu vào tháng 11 và diễn ra trong khoảng 5 tháng. Những người bị SAD sẽ thuận lợi hơn nếu họ sống ở những vùng thấp với mùa đông ngắn hơn. Những triệu chứng của họ sẽ xấu hơn nếu họ dời đi theo hướng ngược lại (Rosenthal và cs. 1984).
Chỉ có số ít những người có các triệu chứng trầm trọng, kéo dài qua cả mùa đông mới được chẩn đoán là SAD. Còn những người mà sự thay đổi về hoạt động và trọng lượng theo mùa ít không lớn thì vẫn trong cộng đồng. Terman (1988) đã nhận định rằng vào những tháng mùa đông, 50% dân số nói chung giảm năng lượng, 47% tăng cân, trong khi 31% giảm các hoạt động xã hội; 25% trong số những thay đổi đó kéo theo những vấn đề cá nhân. Wick và cs. (1992) cho thấy 3% trong nhóm nghiên cứu thuần tập người Đức bộc lộ hoặc là rối loạn cảm xúc theo mùa, hoặc là dạng ‘cận hội chứng’ SAD 2 lần trong 2 năm liền nhau. Tỉ lệ SAD ở Scotland vào khoảng 3,5% (Eagles và cs. 1999).
Nguyên nhân của rối loạn cảm xúc theo mùa
Những giải thích về SAD hầu như chỉ có tính chất sinh học.
Yếu tố di truyền
Mặc dù gần đây người ta rất quan tâm đến SAD, song vẫn có rất ít nghiên cứu khảo sát vai trò của yếu tố di truyền trong nguyên nhân của SAD. Tuy nhiên, Madden và cs. (1996) đã nghiên cứu sự trùng hợp đối với SAD trên một mẫu lớn những cặp sinh đôi cùng trứng và khác trứng. Họ cũng tiến hành đo lường một số lượng lớn những biến số môi trường và xác định sự quan trọng tương đối của di truyền và các biến số môi trường. Nhóm nghiên cứu này kết luận rằng khoảng 29% khác biệt trong nguy cơ bị SAD có thể quy cho yếu tố di truyền.
Giả thuyết về melatonin
Melatonin có liên quan đến SAD. Đó là một loại hoc mon được giải phóng vào buổi tối, từ tuyến tùng (pineal gland) nằm ở dưới vỏ não, sau đó xuất hiện ở não giữa và phần dưới đồi. Nó kiểm soát giấc ngủ và việc ăn uống. ở động vật có vú sống hoang dã, sự giải phóng melatonin ban đêm dài hơn sẽ làm giảm hoạt động của chúng, làm chúng chậm chạp và chuẩn bị cho chúng quá trình nghỉ đông hoặc trú đông. Theo thuyết trầm cảm liên quan đến melatonin, nó cũng có hiệu ứng tương tự ở con người, mặc dù đa số chúng ta có khả năng vượt qua tác động của nó và giải quyết những vấn đề của mình. Song, một số cá nhân tỏ ra đặc biệt nhạy cảm với sự tăng melatonin vào những tháng mùa đông và thể hiện chậm chạp rõ rệt, điều thể hiện khá rõ nét trong các triệu chứng của SAD (Blehar & Rosenthal, 1989). Trong những trường hợp ngược lại của SAD, một số cá nhân dường như bị sự giảm melatonin ảnh hưởng đến vào mùa hè và trải qua những giai đoạn khí sắc hưng phấn và vui vẻ. Chứng cứ về vai trò của melatonin phần nào đó còn gây nhiều mâu thuẫn. Trong khi một số nghiên cứu đã tìm ra được mối liên quan giữa lượng melatonin và sự khởi phát cũng như mức độ nghiêm trọng của SAD, dù không phải luôn luôn là thế, song vai trò của nó trong nguyên nhân gây ra SAD vẫn chưa được hiểu hoàn toàn.
Giả thuyết về hoạt động hàng ngày
Để thêm vào giả thuyết về melatonin, Lewy và cs. (1998) đã đưa ra giả thuyết rằng ngoài việc lượng melatonin đóng vai trò quyết định đối với khí sắc, thì thời điểm mà nó giảm sút đi mới là quan trọng đối với sự khởi phát và duy trì SAD. Trong giả thuyết về sinh hoạt thường ngày của họ, họ cho rằng trầm cảm bình thường có thể do tình trạng thiếu ngủ được gây ra bởi sự phá vỡ vòng tuần hoàn ngủ-thức hàng ngày. Đối với SAD, theo nhóm nghiên cứu này, những thay đổi về thời gian của lúc bình minh và hoàng hôn trong quá trình chuyển từ mùa đông hè sang mùa đông đã làm thay đổi thời gian mà melatonin được giải phóng, dẫn tới sự thay đổi nhịp điệu giấc ngủ hàng ngày, kéo nó ra khỏi sự liên kết với các nhịp điệu sinh học khác. Mục đích của liệu pháp là phải thiết lập lại các pha của vòng tuần hoàn ngủ-thức như trong mùa hè. Theo Lewy, có thể làm được điều này bằng cách phơi mình trong ánh sáng vào buổi sớm, điều này giúp cá nhân duy trì được tuần hoàn thức-ngủ của mùa hè và duy trì được lượng melatonin cho đến cuối ngày. Điều này, cùng với việc ngủ sớm hơn vào buổi tối, tỏ ra là một phương pháp điều trị SAD có hiệu quả. Công việc của chính nhóm nghiên cứu này đã ủng hộ giả thuyết của họ, khi họ tìm ra rằng liệu pháp ánh sáng vào buổi sớm có hiệu quả cao hơn nếu chúng ta làm được điều đó vào buổi tối: tác dụng có thể giữ được miễn là cá nhân duy trì thời gian ngủ và thức của họ như trong mùa hè (Lewy và cs. 1998).
Giả thuyết về serotonin
Giả thuyết cuối cùng được đưa ra là ít nhất cũng có một vài cơ chế tiềm ẩn trong SAD không phải là đặc biệt đối với hội chứng này, và có lẽ chính chúng lại là một dạng khác của trầm cảm mà thôi. Có rất nhiều yếu tố để có thể coi serotonin là nguyên nhân của SAD. Serotonin liên quan đến sự kiểm soát chế độ ăn uống và giấc ngủ, và nó là tiền chất của melatonin. Lượng serotonin thay đổi theo mùa, và việc làm giảm lượng serotonin bằng cách loại bỏ một tiền chất đối với serotonin, chất trytophan, trong chế độ ăn, dẫn đến các triệu chứng trầm cảm trong suốt mùa hè ở những người có biểu hiện điển hình SAD trong mùa đông (Neumeister và cs. 1997). Một chứng cứ rõ ràng hơn về vai trò của serotonin được thấy từ điều trị thử nghiệm bằng SSRIs. Cả sertraline và fluoxetine đều đã tỏ ra có tác dụng ở mức độ vừa phải trong điều trị SAD. Tuy nhiên, nhìn chung những phương pháp này không hiệu quả bằng liệu pháp ánh sáng (Partonen và Lonnqvist 1998), cho thấy rằng dù cho lượng serotonin có thể là một nguyên nhân ngầm ẩn của SAD, nó cũng không hoàn toàn thuyết phục.
Điều trị rối loạn cảm xúc theo mùa
Phương pháp điều trị SAD đã được thừa nhận là điều trị bằng ánh sáng trắng (“bright light” treatment), phương pháp khắc phục sự giảm lượng melatonin. Đặc trưng của phương pháp này là cá nhân phơi mình trong ánh sáng nhân tạo mạnh, dao động từ 2.500 luxơ trong 2 giờ đến 10.000 luxơ trong nửa giờ mỗi ngày trong khoảng thời gian từ 1 đến 3 tuần. Để tiện so sánh, cần biết rằng thông thường, ánh sáng trong nhà chỉ ở mức 100 luxơ hoặc ít hơn. ánh sáng ở ngoài có thể từ 2000 luxơ hoặc ít hơn trong ngày mưa mùa đông và 10.000 luxơ dưới ánh nắng mặt trời trực tiếp.
Những can thiệp này tỏ ra có hiệu quả. Trong siêu phân tích những nghiên cứu có liên quan, Terman và cs. (1989), đã báo cáo về một sự cải thiện đáng kể trong 67% người bị SAD nhẹ và 40% người rối loạn vừa và nặng, được điều trị bằng liệu pháp ánh sáng: kết quả còn tốt rõ rệt hơn so với những người trị liệu bằng placebo. Gần đây hơn, Sumaya và cs. (2001) đ đã tiến hành một thử nghiệm: các bệnh nhân trầm cảm được đặt vào 3 hoàn cảnh một cách ngẫu nhiên: nhóm thứ nhất được điều trị bằng một “liều” ánh sáng 10.000 luxơ 30 phút mỗi ngày trong 1 tuần; nhóm thứ hai nhận một lượng ánh sáng 300 luxơ không có tác dụng trị liệu (ánh sáng ở đây chỉ là một loại placebo) trong cùng khoảng thời gian đó và nhóm thứ 3 không được trị liệu. Sau thực nghiệm, 50% trong số những người nhận được trị liệu tích cực không lặp lại những triệu chứng trầm cảm nữa. Mức độ trầm cảm không thay đổi đối với 2 nhóm còn lại. Tuy nhiên, có thể phải cân nhắc đến đáp ứng placebo đối với liệu pháp ánh sáng, đôi khi nó tương đương với liệu pháp điều trị tích cực. Wileman và đồng nghiệp năm 2001 đã chia ngẫu nhiên bệnh nhân SAD vào các điều kiện trị liệu tích cực (4 tuần với ánh sáng 10.000 luxơ) và điều trị placebo (4 tuần với ánh sáng 300 luxơ).
Ngay sau điều trị, 30% những người được điều trị tích cực và 33% những người trong nhóm được dùng placebo không còn trầm cảm nữa; 63% trong nhóm thứ nhất và 57% thuộc nhóm còn lại có biểu hiện cải thiện rõ rệt. Tuy thế, liệu pháp ánh sáng vẫn được coi là liệu pháp hàng đầu trong điều trị SAD.
Bài viết cùng chuyên mục
Tiến trình trị liệu hành vi bất thường
Mặc dù đã có rất nhiều tiến bộ nhờ sự phát triển phong phú và đa dạng của những phương pháp khác nhau, phỏng vấn lâm sàng vẫn là công cụ chính để tìm hiểu vấn đề của thân chủ. Shea (1998) đưa ra 6 mục tiêu của sự đánh giá ban đầu.
Rối loạn nhân cách ranh giới hành vi dị thường
DSM-IV-TR định nghĩa rối loạn nhân cách ranh giới gồm các mối quan hệ liên cá nhân, hình ảnh bản thân, tình cảm không ổn định và có xung động rõ rệt. Nó khởi phát từ đầu thời thơ ấu và bao gồm 5 trong số những triệu chứng.
Các rối loạn nhân cách hành vi dị thường
Mức độ phân bố trong dân cư của những rối loạn khác nhau như sau: 0,4% dân số đối với rối loạn nhân cách paranoid và ái kỉ, 4,6% đối với rối loạn nhân cách ranh giới (Davidson 2000).
Trị liệu tâm lí hoặc trị liệu dược lí hành vi dị thường
Tất cả các mô hình đã được bàn luận đều dựa trên quan niệm cho rằng nguyên nhân của các rối loạn tâm thần nằm trong cá nhân, đó có thể là do di truyền, hoá sinh hoặc tâm lí.
Nhân cách chống đối xã hội hành vi dị thường
Thuật ngữ nhân cách chống đối xã hội và nhân cách bệnh thường được sử dụng thay thế nhau. Thực tế, hạng mục DSM-IV-TR dành cho nhân cách chống đối xã hội đã kết hợp chẩn đoán rối loạn này với nhân cách bệnh, đây là điểm khác biệt so với DSM III.
Xơ vữa rải rác tâm lý dị thường
Tiến trình MS rất khác nhau ở các cá nhân. ít có trường hợp khởi phát trước 15 tuổi; 20% số trường hợp bị MS có dạng khởi đầu giống như một bệnh trong đó các triệu chứng hầu như không tiến triển sau khi xuất hiện.
Đánh bạc bệnh lí tâm lý dị thường
Một trong những yếu tố được xem như có liên quan tới đánh bạc là cái “thú” của thắng bạc hoặc gần thắng bạc, nó cũng tương đương với việc đạt được cái thú đó trong nghiện ma túy.
Nguyên nhân những vấn đề sức khoẻ tâm thần
Có rất nhiều tài liệu khác nhau tập trung vào những yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe tâm thần. Những yếu tố này không tác động một cách riêng rẽ mà có sự kết hợp với nhau tạo thành nguy cơ xuất hiện các rối loạn tâm thần ở cá nhân.
Lạm dụng rượu tâm lý dị thường
Rượu là một chất gây nghiện hợp pháp. Uống đến mức độ vừa phải, một vài loại rượu như rượu vang đỏ, có thể có lợi cho sức khỏe. Nhưng việc sử dụng rượu quá mức lại là có hại.
Tự kỷ với hành vi dị thường
Đó là chưa kể đến một số vấn đề khác nhẹ hơn, khá phổ biến trong dân cư (Bailey và cs. 1995). Những khả năng và khó khăn của người tự kỉ cũng rất khác nhau.
Chấn thương sọ não tâm lý dị thường
Chấn thương sọ não kín xuất hiện khi đầu bị va chạm mạnh nhưng không có tổn thương hộp sọ hoặc vết thương não đặc biệt. Dạng chấn thương như vậy thường gây ra sự chấn động toàn bộ não trong hộp sọ và tổn thương lan toả.
Rối loạn tăng động giảm chú ý
Rất nhiều trẻ em có một số đặc điểm của ADHD. Ranh giới không rõ ràng giữa hành vi “bình thường” và “bệnh lí” và tiềm ẩn sự lạm dụng chẩn đoán ADHD để bắt những đứa trẻ quậy phá phải điều trị.
Chán ăn và cuồng ăn tâm lí hành vi dị thường
Chán ăn tâm lí bao gồm những thái độ, ý định làm cho bản thân càng gầy càng tốt. Thực vậy, nói một cách ngắn gọn lại về chán ăn là sự giảm cân một cách đáng kể.
Những quan điểm hiện đại về tính dị thường
Mô hình không tưởng cho rằng chỉ có những người nào đạt được mức độ tối đa so với khả năng của mình trong cuộc sống thì họ mới không có những vấn đề về sức khỏe tâm thần.
Rối loạn lo âu lan toả hành vi dị thường
DSM-IV-TR (APA 2000) định nghĩa rối loạn lo âu lan toả (GAD - Generalized anxiety disorder) là sự lo âu hay phiền muộn quá mức và kéo dài liên tục, xuất hiện ngày càng nhiều trong một khoảng thời gian ít nhất là 6 tháng.
Rối loạn xác định phân ly
Một đặc tính của những cá nhân được chẩn đoán là mắc chứng rối loạn xác định phân li (DID - dissociative identity disorder) là rằng họ cư xử như họ có hai hay nhiều hơn những bản thể hoặc nhân cách khác biệt.
Loạn dục đa dạng hành vi bất thường
Không dễ dàng gì phân biệt đâu là hoạt động tình dục “bình thường” và đâu là “không bình thường”. Tuy vậy cũng có những hành vi tình dục dễ dàng xếp vào “không bình thường”. ở đây muốn đề cập đến loạn dục đa dạng (paraphilias).
Co thắt âm đạo hành vi bất thường
Một trong những cách giải lo âu liên quan đến hành vi tình dục là bằng kĩ thuật tập trung vào cảm giác, với mức độ tiến dần từ từ đến động chạm vào bộ phận sinh dục.
Khó học với hành vi dị thường
Tiêu chuẩn đầu tiên để chẩn đoán rối loạn khả năng học là khởi phát trước tuổi 18, ngoại trừ những rối loạn cảm xúc do chấn thương hoặc những bệnh thần kinh khởi phát muộn.
Dự phòng những vấn đề sức khoẻ tâm thần
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (1996), tăng cường sức khoẻ bao gồm rất nhiều sự can thiệp đa dạng phức tạp ở những mức độ khác nhau không chỉ nhằm mục đích ngăn chặn bệnh tật mà còn khuyến khích, thúc đẩy sức khoẻ tích cực.
Rối loạn hoảng sợ hành vi dị thường
Yếu tố trung tâm của phản ứng hoảng sợ là sự kích thích sinh lí ở mức độ cao, khởi đầu là sự hoạt hoá của vùng dưới đồi và được trung gian bởi hệ thần kinh giao cảm.
Trị liệu lo âu
Benzodiazepine tốt nhất, Valium mới được đưa ra thị trường vài năm, vào giữa những năm 1980, các benzodiazepine là thuốc hướng thần được chỉ định rộng rãi nhất.
Sử dụng heroin tâm lý dị thường
Các opiate là một nhóm các loại chất gây nghiện chiết xuất từ cây thuốc phiện. Những chiết xuất chủ yếu, theo thứ tự về khả năng gây nghiện là thuốc phiện, moocphin và heroin.
Rối loạn stress sau sang chấn
Nó có thể bao gồm những trải nghiệm chiến tranh, bị lạm dụng tình dục hoặc thể chất thời thơ ấu, cưỡng dâm, thiên tai hoặc những thảm họa do công nghệ.
Loạn dục với trẻ em
Những hành vi loạn dục với trẻ em cũng rất khác nhau. Một số người chỉ nhìn mà không đụng chạm vào trẻ. Một số khác lại thích động chạm hoặc cởi quần áo của chúng.