Taxol

2011-08-01 12:44 PM

Khả năng gây ung thư của Taxol chưa được nghiên cứu. Tuy nhiên, paclitaxel là một tác nhân gây ung thư và độc tính trên gen do cơ chế tác động dược lực của thuốc.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Dung dịch dùng để pha tiêm truyền tĩnh mạch 30 mg/5 ml: Lọ đơn liều 5 ml, hộp 1 lọ.

Dung dịch dùng để pha tiêm truyền tĩnh mạch 100 mg/17 ml: Lọ 17 ml, hộp 1 lọ.

Độc bảng A.

Thành phần

Mỗi 1 lọ: Paclitaxel 30mg; 100mg.

Tá dược: Huile de ricin polyoxyethylene (Crémophor EL), ethanol.

Dược lực học

Chống ung thư, điều chỉnh đáp ứng miễn dịch, kìm tế bào : nhóm Taxone. Paclitaxel là một tác nhân mới, ức chế sự phân rã mạng lưới vi thể của thoi nhiễm sắc ; nó kích thích quá trình ghép các dimer của vi ống thành mạng lưới vi thể và ổn định mạng lưới vi thể bằng cách ngăn chặn quá trình tháo xoắn của chúng. Tính ổn định này ức chế sự tái tổ chức năng lượng bình thường của mạng lưới vi thể, một hiện tượng chủ yếu của chức năng sống của tế bào trong tiến trình gian kỳ và gián phân.

Ngoài ra, paclitaxel còn gây sự hình thành không bình thường các nhóm hay bó của mạng lưới vi thể trong suốt chu kz của tế bào, và tổ chức quá trình phân chia thể sao của mạng lưới vi thể trong sự gián phân.

Sự dung nạp và hiệu lực của Taxol (135 mg/m2 trong 24 giờ), sau đó dùng cisplatine (75 mg/m2) đã được đánh giá trong một nghiên cứu mù đôi có kiểm soát (đối chiếu với cyclophosphamide 750 mg/m2, cisplatine 75 mg/m2), nghiên cứu GOG 111/BMS CA 139-022. Nghiên cứu này được thực hiện trên 400 bệnh nhân bị ung thư buồng trứng nguyên phát với bệnh đã tiến triển, có bướu tồn lưu > 1 cm) hay có di căn.

Kết quả ghi nhận ở nhóm dùng Taxol có hiệu quả tốt hơn đáng kể về thời gian kìm không cho ung thư phát triển (trên 3,5 tháng) và thời gian kéo dài sự sống (trên 11 tháng). Về dung nạp thuốc thì tương tự nhau giữa hai nhóm.

Taxol, với liều 175 mg/m2, được truyền tiếp theo đó bằng cisplatine 80 mg/m2 được đánh giá qua 2 công trình nghiên cứu giai đoạn III ở những bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa (367 bệnh nhân điều trị bằng Taxol); cả hai đều là thử nghiệm ngẫu nhiên, trong đó một được so sánh với điều trị bằng cisplatine với liều 100 mg/m2, một sử dụng téniposide liều 100 mg/m2 sau đó tiếp tục bằng cisplatine liều 80 mg/m2 như là chất đối chiếu (có 376 bệnh nhân được dùng thuốc đối chiếu). Kết quả tương đương nhau giữa các thử nghiệm. Đối với tiêu chuẩn đánh giá đầu tiên về ước lượng tử vong, giữa nhóm dùng Taxol và nhóm dùng thuốc đối chiếu không có sự khác biệt đáng kể (thời gian kéo dài sự sống trung bình từ 8,1 đến 9,5 tháng đối với nhóm dùng Taxol, 8,6 đến 9,9 tháng đối với nhóm dùng thuốc đối chiếu). Tương tự, thời hạn kéo dài cuộc sống mà ung thư không phát triển cũng không khác

nhau đáng kể giữa các nhóm. Có một khác biệt đáng kể trên phương diện đáp ứng lâm sàng. Các kết quả khảo sát trên chất lượng sống cho thấy dùng Taxol có lợi do ít làm mất cảm giác ngon miệng và ít gây các bệnh lý thần kinh ngoại biên.

Dược động học

Sau khi được truyền tĩnh mạch, nồng độ của paclitaxel trong huyết tương giảm dần theo một đường cong biểu diễn gồm hai pha.

Dược động của paclitaxel được nghiên cứu trong điều kiện truyền tĩnh mạch thời gian là 3 giờ và 24 giờ, và ở liều 135 và 175 mg/m2. Thời gian bán hủy trung bình của pha cuối từ 3 đến 52,7 giờ và giá trị trung bình của thanh thải toàn phần từ 11,6 đến 24 l/giờ/m2 Sự thanh thải toàn phần dường như giảm khi nồng độ của paclitaxel trong huyết tương cao. Thể tích phân phối trung bình ở tình trạng cân bằng dao động từ 198 đến 688 l/m2điều này cho thấy có sự khuếch tán ngoại mạch và/hoặc gắn vào mô đáng kể của paclitaxel. Khi tăng 30% liều, từ 135 đến 175 mg/m2, các giá trị Cmax và diện tích dưới đường cong tăng tương ứng từ 75 đến 81% khi truyền trong 3 giờ, như vậy việc tăng liều không có liên quan tuyến tính với việc tăng các thông số dược động.

Sự khác biệt giữa người này và người khác khi dùng paclitaxel đường toàn thân rất ít. Không ghi nhận có hiện tượng tích tụ paclitaxel khi dùng nhiều đợt điều trị liên tiếp. Các nghiên cứu in vitro được thực hiện trên proteine huyết thanh người cho thấy tỷ lệ gắn với proteine trung bình từ 89 đến 98%. Khi dùng đồng thới với cimetidine, ranitidine, dexamethasone hay diphenhydramine, tỷ lệ gắn với proteine không bị thay đổi. Thể thức đào thải của paclitaxel ở người hiện chưa được biết rõ. Tỷ lệ đào thải qua thận dưới dạng không đổi từ 1,3 đến 12,6% liều dùng, cho thấy có sự thanh thải đáng kể ngoài thận. Các chất chuyển hóa chính được tìm thấy dưới dạng hydroxyl hóa. Sự chuyển hóa qua gan và đào thải qua mật dường như là cơ chế đào thải chính của paclitaxel. Chưa có nghiên cứu về ảnh hưởng trên sự chuyển hóa thuốc khi dùng cho bệnh nhân bị suy gan hay suy thận. Các thông số dược động thu được ở bệnh nhân chạy thận được truyền Taxol 135 mg/m2 trong 3 giờ thì tương tự như ở bệnh nhân bình thường.

An toàn

Khả năng gây ung thư của Taxol chưa được nghiên cứu. Tuy nhiên, paclitaxel là một tác nhân gây ung thư và độc tính trên gen do cơ chế tác động dược lực của thuốc. Taxol được ghi nhận gây đột biến in vitro và in vivo trong các thử nghiệm trên tế bào của động vật hữu nhũ.

Chỉ định

Ung thư biểu mô buồng trứng

Trị liệu đầu tay ung thư buồng trứng tiến xa hoặc bướu tồn lưu ( 1 cm) sau phẫu thuật, dùng phối hợp với cisplatine.

Trong trị liệu thứ nhì, ung thư buồng trứng đã di căn, sau khi thất bại với phương pháp điều trị cổ điển bằng các dẫn xuất của platine.

Ung thư biểu mô vú

Trong điều trị hỗ trợ ung thư giai đoạn sớm, có hạch dương tính, dùng liên tiếp sau phác đồ có chứa doxorubicine.

Trong điều trị ung thư vú di căn đã thất bại sau một đợt hóa trị - hoặc tái phát sau khi điều trị hỗ trợ. Thường các điều trị trước đó có chứa anthracycline, trừ khi nào có chống chỉ định. Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ :

Taxol dùng chung với cisplatine, được được chỉ định đầu tay để điều trị bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ, ở giai đoạn không thể phẫu thuật và/hoặc xạ trị được.

Ngoài ra, Taxol còn dùng để điều trị Ung thư Kaposi có liên quan đến bệnh AIDS.

Chống chỉ định

Chống chỉ định Taxol cho những bệnh nhân đã có phản ứng quá mẫn cảm nặng với paclitaxel hoặc với bất cứ thành phần nào của thuốc, đặc biệt là với huile de ricin polyoxyethylene (Crémophor EL).

Không được điều trị bằng Taxol ở những bệnh nhân có số lượng bạch cầu trung tính dưới 1.500/mm3.

Phụ nữ có thai hay cho con bú: Xem thêm phần Lúc có thai và Lúc nuôi con bú.

Thận trọng

Việc điều trị bằng Taxol phải do một bác sĩ chuyên khoa có kinh nghiệm quyết định. Do có thể xảy ra phản ứng quá mẫn cảm nặng, cần phải trang bị những phương tiện cấp cứu thích hợp. Bệnh nhân phải được cho dùng một thuốc thuộc nhóm corticoide, kháng histamine và đối kháng thụ thể H2 trước khi dùng Taxol (xem thêm phần Liều lượng các Cách dùng). - Taxol phải được cho dùng trước cisplatine trong trường hợp dùng phối hợp. - Các phản ứng dị ứng nặng, được đặc trưng bằng chứng khó thở và tụt huyết áp đến mức cần phải được điếu trị, phù mạch và phát ban toàn thân, đã được ghi nhận trên 1% những bệnh nhân được điều trị bằng Taxol mặc dầu trước đó đã có dùng những thuốc dự phòng (corticoide, kháng histamine và đối kháng thụ thể H2). Các phản ứng xảy ra có liên quan đến sự phóng thích histamine.

Trường hợp xảy ra phản ứng quá mẫn cảm nặng, cần phải ngưng truyền ngay, điều trị triệu chứng và không dùng trở lại Taxol cho bệnh nhân này.

Chứng suy tủy (chủ yếu là giảm bạch cầu trung tính) là một độc tính của thuốc (giới hạn liều dùng). Cần phải thường xuyên kiểm tra công thức máu trong thời gian điều trị với Taxol. Một đợt điều trị mới bằng Taxol chỉ được thực hiện khi mà số lượng bạch cầu trung tính phải = 1.500 /mm3 và số lượng tiểu cầu phải >= 100.000/mm3.

Các rối loạn nặng về dẫn truyền ở tim cũng đã được ghi nhận. Nếu có rối loạn dẫn truyền của tim trong thời gian dùng Taxol, phải dùng một biện pháp điều trị thích hợp và theo dõi điện tim của bệnh nhân trong suốt thời gian điều trị bằng Taxol. Có thể xảy ra hạ huyết áp, tăng huyết áp, chậm nhịp tim nhưng không biểu hiện bằng triệu chứng. Nên thường xuyên theo dõi các chức năng sinh tồn trong thời gian truyền Taxol, nhất là trong giờ đầu tiên.

 Mặc dầu các bệnh lý thần kinh ngoại biên là một trong những tác dụng ngoại { thường xảy ra, nhưng chỉ ở mức độ nhẹ. Trường hợp có những triệu chứng nặng, nên giảm liều 20% cho những liều tiếp theo.

Ở những bệnh nhân bị rối loạn chức năng gan nhẹ, không ghi nhận độc tính của Taxol tăng lên khi truyền trong 3 giờ. Hiện không có tài liệu về dùng thuốc ở những bệnh nhân bị tắc mật nặng. Nếu thời gian truyền Taxol lâu hơn, ở những bệnh nhân bị suy gan vừa hoặc nặng, có thể tăng nguy cơ suy tủy.

Không khuyến cáo dùng Taxol ở những bệnh nhân bị suy gan nặng. - Do trong thành phần của Taxol có chứa 396 mg ethanol tuyệt đối/ml, cũng nên lưu { đến những tác dụng trên thần kinh trung ương có thể xảy ra.

Không dùng Taxol bằng cách tiêm động mạch do đã ghi nhận có những phản ứng nặng trên mô trong những thử nghiệm trên động vật về khả năng dung nạp tại chỗ.

Lái xe và vận hành máy móc

Bản thân Taxol không gây ảnh hưởng đến sự tập trung khi lái xe hay thao tác máy. Tuy nhiên, do thuốc có chứa alcool nên phải thận trọng không nên lái xe hay thao tác máy ngay sau khi điều trị vì có thể gây buồn ngủ.

Người lái xe hay phải vận hành máy móc cần phải được lưu { về điều này.

Lúc có thai

Taxol được ghi nhận là có độc tính trên phôi và bào thai ở thỏ và làm giảm khả năng sinh sản ở chuột cống.

Không có số liệu về sử dụng Taxol cho phụ nữ có thai. Cũng như đối với tất cả các tác nhân độc tế bào khác, Taxol có thể độc cho bào thai. Chống chỉ định Taxol cho phụ nữ có thai. Nên khuyên bệnh nhân không nên có thai trong thời gian điều trị bằng Taxol. Trường hợp có thai, bệnh nhân phải báo ngay cho bác sĩ điều trị biết.

Lúc nuôi con bú

Không biết Taxol có được bài tiết qua sữa mẹ hay không. Chống chỉ định Taxol trong thời gian cho con bú. Phải ngưng cho con bú trong thời gian điều trị bằng Taxol.

Tương tác

Sự thanh thải của paclitaxel không bị ảnh hưởng do việc dùng cim tidine trước đó. Trong điều trị đầu tay ung thư buồng trứng, Taxol phải được dùng trước cisplatine. Như thế, sự dung nạp thuốc sẽ tương tự như khi Taxol được dùng trong đơn liệu pháp. Nếu Taxol được dùng sau cisplatine, tác dụng gây suy tủy sẽ nặng hơn. Sự thanh thải của paclitaxel được ghi nhận giảm 20% nếu Taxol được dùng sau cisplatine.

Có thể sự chuyển hóa của Taxol bị ức chế ở bệnh nhân được điều trị bằng k toconazole. Do đó phải thận trọng khi dùng Taxol cho bệnh nhân được điều trị đồng thời bằng kétoconazole.

Tác dụng phụ

Tần suất xuất hiện và độ nặng của các tác dụng ngoại { đều giống nhau đối với các bệnh nhân có ung thư buồng trứng hoặc vú hay phổi không phải tế bào nhỏ.

Các số liệu về dung nạp thuốc mô tả dưới đây được thu thập từ 95 bệnh nhân bị ung thư buồng trứng và 289 bệnh nhân bị ung thư vú và được điều trị với liều lượng và phác đồ truyền khuyến cáo (175 mg/m2, truyền trong 3 giờ) trong 3 thử nghiệm lâm sàng ở giai đoạn III. Sự dung nạp của thuốc cũng được đánh giá trong một thử nghiệm đối chiếu qui mô lớn (GOG 111), và trong một số thử nghiệm quan trọng giai đoạn III trên ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (truyền 3 giờ): xem Dương lực học. Trừ trường hợp đặc biệt, phối hợp Taxol và cisplatine hay việc truyền Taxol trong 24 giờ không làm thay đổi sự dung nạp của Taxol. Suy tủy là một tác dụng ngoại { thường xảy ra nhất của Taxol. Giảm bạch cầu trung tính nặng (dưới 500/mm3) đã được ghi nhận trên 28% bệnh nhân không kèm theo giai đoạn sốt cao. Chỉ 1% bệnh nhân bị giảm bạch cầu trung tính nặng trong 7 ngày hoặc hơn. 24% bệnh nhân có giai đoạn bị nhiễm trùng. Trong các thử nghiệm lâm sàng ở giai đoạn III, có hai trường hợp tử vong do nhiễm trùng đã được quan sát ở liều lượng và phác đồ truyền khuyến cáo (175 mg/m2, truyền trong 3 giờ).

Giảm tiểu cầu đã được ghi nhận trên 11% bệnh nhân. 64% bệnh nhân bị thiếu máu trong đó có khoảng 6% được xem là nặng (Hb < 8 g/dl). Mức độ nặng nhẹ và khả năng bị thiếu máu tùy thuộc vào số lượng hemoglobine trước khi điều trị.

Một trường hợp bị bệnh bạch cầu tủy và một trường hợp bị hội chứng loạn sản tủy đã được ghi nhận ngoài các thử nghiệm giai đoạn III.

Chứng suy tủy ít xảy ra và ít nghiệm trọng hơn nếu thời gian truyền là 3 giờ so với 24 giờ. Khi phối hợp Taxol và cisplatine được khuyến cáo trong điều trị đầu tay ung thư buồng trứng, khả năng gây suy tủy sẽ cao hơn so với dùng riêng Taxol 175 mg/m2, truyền trong 3 giờ. Tuy nhiên không để lại nhiều di chứng lâm sàng hơn.

Các phản ứng quá mẫn nặng, đôi khi gây tử vong (tụt huyết áp cần được điều trị, phù mạch, suy hô hấp cần phải điều trị bằng thuốc giãn phế quản, nổi ban toàn thân) đã xảy ra ở 2 bệnh nhân (dưới 1%). Các phản ứng quá mẫn nhẹ (chủ yếu là gây cơn bừng vận mạch, rash) không cần phải điều trị chuyên biệt và cũng không cần phải ngưng dùng Taxol được ghi nhận ở 34% bệnh nhân. Hạ huyết áp (ở 22% bệnh nhân) và chậm nhịp tim (5% bệnh nhân) cũng có thể xảy ra trong quá trình truyền Taxol nhưng thường vừa phải và không cần phải điều trị chuyên biệt. Trong các thử nghiệm lâm sàng ở liều lượng và phác đồ truyền khuyến cáo, có 17% bệnh nhân được ghi nhận là có điện tâm đồ bất thường. Trong đa số trường hợp, không có mối liên hệ rõ ràng nào giữa việc dùng Taxol và việc bất thường điện tâm đồ. Ảnh hưởng trên lâm sàng của những bất thường này được đánh giá là nhẹ.

Một bệnh nhân (dưới 1%) bị cao huyết áp trong thời gian điều trị bằng Taxol. Ngoài ra, có 2 bệnh nhân (dưới 1%) được ghi nhận là có những biểu hiện bị huyết khối nặng, huyết khối các

đầu của chi trên và huyết khối tĩnh mạch. Có 1 bệnh nhân được ghi nhận có hiện tượng tim mạch bao gồm : hạ huyết áp kèm theo sốc nhiễm trùng, bệnh l{ cơ tim và nhịp tim nhanh kèm theo sốt. Trong các thử nghiệm đầu tiên được thực hiện ở liều và phác đồ truyền khác nhau, có 4 bệnh nhân (2%) có hiện tượng tim mạch nặng có thể có liên quan đến việc dùng Taxol trong đó gồm nhịp nhanh thất không có triệu chứng, nhịp nhanh với nhịp mạch đôi, bloc nhĩ-thất và ngất.

Một số hiếm trường hợp bị nhồi máu cơ tim được ghi nhận. Một số trường hợp suy tim sung huyết cũng được ghi nhận ở những bệnh nhân đã được điều trị bằng hóa trị liệu trước đó, đặc biệt là nhóm anthracycline.

Bệnh lý thần kinh ngoại biên, được biểu hiện chủ yếu bằng triệu chứng dị cảm, xảy ra ở 66% bệnh nhân, trong đó chỉ 5% bị nặng. Các triệu chứng thần kinh ngoại biên có thể xảy ra ngay sau lần dùng Taxol đầu tiên và nặng lên trong các lần điều trị tiếp theo. Có 3 trường hợp phải ngưng điều trị. Các rối loạn về cảm giác thường giảm và khỏi vài tháng sau khi ngưng điều trị. Không cần phải chống chỉ định dùng Taxol nếu bệnh nhân đã có bệnh lý thần kinh do việc điều trị trước đó. Trong những bệnh nhân được điều trị bằng Taxol ngoài nhóm thử nghiệm đối chiếu, đã ghi nhận một số trường hợp bị động kinh, rối loạn thị giác, bệnh lý não, bệnh lý thần kinh của hệ thần kinh tự động dẫn đến các trường hợp tắc ruột và tụt huyết áp tư thế. Một số rối loạn thần kinh mắt và/hoặc thị giác (ám điểm lập lòe) cũng được ghi nhận, đặc biệt là ở những bệnh nhân được cho dùng liều cao hơn liều khuyến cáo. Các tác dụng này thường phục hồi được.

Đau cơ và đau khớp xảy ra ở 60% bệnh nhân trong đó có 13% được xem là nặng. Rụng tóc xảy ra ở hầu hết tất cả bệnh nhân.

Một số thay đổi tạm thời và nhẹ ở móng và da đã được ghi nhận.

Các tác dụng ngoại { trên đường tiêu hóa ở mức độ từ nhẹ đến vừa được ghi nhận: buồn nôn và nôn (43%), tiêu chảy (28%) và viêm miệng (18%). Các tác dụng ngoại ý được ghi nhận ngoài thử nghiệm có kiểm soát gồm tắc/thủng ruột và huyết khối mạc treo ruột kể cả viêm ruột kết thiếu máu cục bộ.

Đã ghi nhận có tăng nhiều (trên 5 lần giá trị bình thường) men ASAT (SGOT) ở 5% bệnh nhân, phosphatase kiềm ở 4% bệnh nhân hay bilirubine ở ít nhất 1% bệnh nhân. Hoại tử gan và bệnh não do gan được ghi nhận ở một số bệnh nhân được điều trị bằng Taxol ngoài thử nghiệm ở giai đoạn III.

Các phản ứng tại điểm tiêm được ghi nhận trong thời gian truyền tĩnh mạch, có thể gây phù tại chỗ, cảm giác đau, hồng ban và chai cứng. Tùy trường hợp, tiêm thuốc trào ra khỏi mạch có thể gây viêm tế bào. Vùng da tại chỗ tiêm có thể mất màu. Phản ứng da hồi quy tại vùng da trước đó đã bị trào thuốc ra khỏi mạch sau khi dùng Taxol sang một nơi khác rất hiếm khi được ghi nhận. Hiện nay chưa có biện pháp điều trị chuyên biệt các phản ứng do trào thuốc ra khỏi mạch.

Các bệnh lý phổi bị viêm đã được ghi nhận ở những bệnh nhân được điều trị phối hợp với xạ trị.

Liều lượng, cách dùng

Điều trị đầu tay ung thư biểu mô buồng trứng

Trong khi một số phác đồ điều trị khác đang được đánh giá, phác đồ được khuyến cáo là phối hợp Taxol 135 mg/m2, trong 24 giờ, sau đó dùng cisplatine 75 mg/m2, với khoảng cách là 3 tuần giữa 2 đợt điều trị (xem phần Tương tác thuốc).

Điều trị thứ nhì ung thư biểu mô buồng trứng và ung thư biểu mô vú : Liều Taxol được khuyến cáo là 175 mg/m2, trong 3 giờ, với khoảng cách là 3 tuần giữa 2 đợt điều trị. Sau lần dùng Taxol đầu, các liều sau đó nên được điều chỉnh tùy theo mức độ dung nạp của từng bệnh nhân.

Điều trị ung thư phổi không phải tế bào nhỏ

Liều Taxol được khuyến cáo là 175 mg/m2 truyền tĩnh mạch trong 3 giờ, với khoảng cách là 3 tuần giữa hai đợt điều trị. Sau liều đầu tiên, phải điều chỉnh lại liều lượng tùy theo sự dung nạp của bệnh nhân.

Cho tất cả các chỉ định

Chỉ dùng Taxol khi số lượng bạch cầu trung tính ≥ 1.500/mm3 và số lượng tiểu cầu ≥ 100.000/mm3. Những bệnh nhân bị giảm bạch cầu trung tính nặng (số lượng bạch cầu trung tính < 500/mm3 trong 7 ngày hoặc hơn) hoặc bị bệnh lý thần kinh ngoại biên nặng, liều phải được giảm 20% trong các lần điều trị tiếp theo (xem Chú { đề phòng và Thận trọng lúc dùng). Trước khi dùng Taxol, tất cả bệnh nhân phải được điều trị dự phòng bằng corticoide, thuốc kháng histamine và thuốc đối kháng thụ thể H2. Chẳng hạn có thể dùng 130 mg prednisolone đường uống hoặc 20 mg dexamethasone đường uống khoảng từ 12 đến 6 giờ trước khi truyền Taxol, 5 mg dexchlorpheniramine IV và 300 mg cimetidine hoặc 50 mg ranitidine IV 30 đến 60 phút trước khi truyền Taxol (xem Chú { đề phòng và Thận trọng lúc dùng). Taxol phải được truyền nhờ vào một bộ phận lắp ống nối với một màng vi lọc có đường kính ≥ 0,22 mcm (xem Thể thức thao tác)

Thao tác

Như với tất cả các thuốc chống ung thư, phải thận trọng khi thao tác với Taxol. Người pha thuốc phải có kinh nghiệm và phải pha thuốc ở nơi qui định. Khi thao tác phải mang găng tay và tránh không để thuốc tiếp xúc với da hay niêm mạc. Nếu thuốc vấy vào da thì phải rửa ngay với nước và xà phòng. Nếu thuốc vấy vào niêm mạc thì phải rửa với nhiều nước. Có thể bị nóng rát và đỏ tại nơi thuốc vấy vào và giảm khi rửa với nước. Nếu lỡ hít thuốc vào sẽ có cảm giác khó thở, đau ngực, nóng rát ở họng và buồn nôn.

Phải pha loãng Taxol trước khi truyền bằng những kỹ thuật đảm bảo vô trùng. Có thể pha Taxol trong các dung môi sau đây:

Sodium chlorure 0,9%.

Glucose 5%.

Dung dịch glucose 5% và sodium chlorure 0,9%.

Dung dịch glucose và dung dịch Ringer.

Dung môi phải được pha với thể tích đủ để đạt được nồng độ cuối cùng của Taxol từ 0,3 đến 1,2 mg/ml. Sau khi pha, các dung dịch có thể sử dụng được trong vòng 27 giờ, ở nhiệt độ môi trường (25oC) và có ánh sáng. Dung dịch sau khi pha loãng không được để trong tủ lạnh. Một số hiếm trường hợp thấy có cặn lắng trong quá trình truyền Taxol, thường vào cuối giai đoạn truyền trong 24 giờ. Mặc dầu nguyên nhân gây ra hiện tượng này chưa được sáng tỏ, rất có thể là do hiện tượng quá bão hòa của dung dịch. Để làm giảm nguy cơ này, phải sử dụng Taxol càng sớm càng tốt sau khi pha và trong quá trình truyền tránh làm lắc hay rung chai dịch truyền. Phải quan sát kỹ chai dịch truyền trong thời gian truyền và phải ngưng truyền nếu thấy xuất hiện cặn lắng.

Sau khi pha, dung dịch có thể hơi bị đục do thành phần tá dược, không thể lọc được. Taxol phải được truyền nhờ vào một bộ phận lắp ống nối với một màng vi lọc có đường kính < 0,22 mcm. Không thấy thuốc bị giảm tác dụng khi truyền bằng bộ truyền có lắp màng lọc. Các túi hoặc bộ phận lắp ống có chất liệu bằng PVC có thể giải phóng chất di-(2-ethylhexyl)phtalate (DEHP) khi tiếp xúc với Taxol. Để tránh hiện tượng này, không được bảo quản dung dịch Taxol trong các dụng cụ bằng PVC, mà phải dùng chai bằng thủy tinh hoặc polypropylene hoặc túi bằng polypropylene hoặc polyolefine, và khi truyền phải dùng hệ thống truyền dịch được tráng bằng một lớp polyethylene. Việc nối màng lọc bằng PVC ở đầu vô hay đầu ra của bộ phận lắp ống không làm giải phóng đáng kể DEHP.

Hủy rác : tất cả các vật liệu tiếp xúc với Taxol phải được hủy ở bệnh viện theo qui định đối với những loại rác độc với tế bào.

Tương kỵ

Do trong thành phần tá dược của thuốc có chứa huile de ricin polyoxyethylene, không nên pha loãng, bảo quản hay chứa thuốc trong các dụng cụ plastic loại PVC (vì có thể phóng thích DEHP).

Bảo quản

Lọ thuốc chưa mở nắp phải được bảo quản trong chính bao bì của nó, ở nhiệt độ từ 15 đến 25 độ C, tránh ánh sáng.

Trong trường hợp bảo quản trong tủ lạnh (trước khi mở nắp lọ), có thể thấy thuốc bị đóng cặn. Bình thường thì khi pha thuốc trong dung môi ở nhiệt độ phòng thì phần cặn này sẽ được hòa tan trở lại, có thể phải lắc hay không cần phải lắc, và chất lượng thuốc không bị thay đổi. Nếu sau khi lắc mà thuốc vẫn không tan hay thấy vẫn còn những cặn lắng không tan thì phải hủy, không được sử dụng.

Có thể bảo quản thuốc trong tủ đông.

Bài viết cùng chuyên mục

Trileptal

Trong những nghiên cứu dược lý trên súc vật, oxcarbazepine và chất chuyển hóa dẫn xuất monohydroxy (MHD) biểu hiện tác dụng chống co giật mạnh và hữu hiệu.

Tobrin: thuốc điều trị nhiễm khuẩn bề mặt ở mắt

Thuốc nhỏ mắt Tobrin được dùng để điều trị nhiễm khuẩn bề mặt ở mắt như viêm kết mạc. Điều trị nhiễm khuẩn bề mặt của mắt và phần phụ của mắt gây ra bởi vi khuẩn nhạy cảm với tobramycin ở người lớn và trẻ em trên 1 năm tuổi.

Tanakan

Các tính chất của Tanakan là hợp lực của các hoạt tính được chứng minh trên chuyển hóa tế bào, lưu biến vi tuần hoàn và vận mạch các mạch máu lớn.

Tilcotil

Sau khi uống, tenoxicam được hấp thu trong vòng từ 1 đến 2 giờ. Thuốc được hấp thu hoàn toàn. Thức ăn làm chậm tốc độ hấp thu của tenoxicam nhưng không làm thay đổi lượng khả dụng sinh học.

Tergynan

Tergynan có thành phần công thức phối hợp nhiều hợp chất, do đó có tác động điều trị tại chỗ viêm âm đạo do nhiều nguyên nhân khác nhau như do nhiễm khuẩn.

Trimovax

Ngừa cùng một lúc 3 bệnh: Sởi, quai bị, rubéole, từ 12 tháng tuổi cho trẻ con trai và gái. Đối với trẻ sống tập thể, có thể dùng từ 9 tháng tuổi.

Triamcinolon

Triamcinolon là glucocorticoid tổng hợp có fluor. Ðược dùng dưới dạng alcol hoặc este, để uống, tiêm bắp hoặc tiêm tại chỗ, hít hoặc bôi ngoài để điều trị các rối loạn cần dùng corticoid.

Tenoxicam

Tenoxicam là thuốc chống viêm không steroid có tác dụng chống viêm và giảm đau đáng kể và phần nào có tác dụng hạ nhiệt.

Tagrisso: thuốc liệu pháp nhắm trúng đích điều trị ung thư

Nuốt nguyên viên với nước (không được nghiền, bẻ hoặc nhai), kèm hoặc không kèm thức ăn, tại cùng thời điểm mỗi ngày. Bệnh nhân không thể nuốt nguyên viên: thả nguyên viên thuốc (không được nghiền) vào ly có 50mL (/ 15mL).

Tremfya: thuốc điều trị bệnh vảy nến

Thuốc Tremfya điều trị bệnh vảy nến thể mảng trung bình đến nặng ở bệnh nhân người lớn có chỉ định điều trị toàn thân, và điều trị bệnh viêm khớp vảy nến.

Tioconazol

Tioconazol có tác dụng kìm nấm nhưng cũng có thể diệt nấm tùy thuộc vào nồng độ. Giống các azol chống nấm khác, tioconazol ức chế hoạt động của cytochrom P450.

Tagamet

Điều trị loét tá tràng hoặc loét dạ dày lành tính bao gồm loét do các thuốc kháng viêm không steroid, loét tái phát và loét chỗ nối, trào ngược dạ dày - thực quản và các bệnh khác mà tác động giảm tiết acid dịch vị.

Testosteron

Testosteron là hormon nam chính do các tế bào kẽ của tinh hoàn sản xuất dưới sự điều hòa của các hormon hướng sinh dục của thùy trước tuyến yên và dưới tác động của hệ thống điều khiển ngược âm tính.

Torental

Pentoxifylline làm giảm nồng độ fibrinogène trong máu nhưng vẫn còn trong giới hạn bình thường ; theo sự hiểu biết cho đến nay, không thể gán một ý nghĩa lâm sàng cho hiện tượng giảm không đáng kể này.

Trausan

Điều trị các tình trạng chức năng não bị suy giảm do thiếu hụt chuyển hóa phospholipid: như chứng xơ vữa mạch máu não, tình trạng trầm cảm, lo âu liên quan đến tuổi tác.

Twynsta: thuốc điều trị tăng huyết áp

Twynsta điều trị tăng huyết áp vô căn. Bệnh nhân đang dùng telmisartan và amlodipine dạng viên riêng lẻ có thể dùng thay thế bằng Twynsta chứa cùng hàm lượng, thành phần các thuốc.

Tildiem

Diltiazem là chất ức chế dòng calci đi qua màng tế bào vào cơ tim và cơ trơn mạch máu và như thế làm giảm nồng độ calci trong tế bào.

Tenadroxil

Nhiễm khuẩn nhẹ-trung bình: Viêm thận bể thận cấp/mạn tính, viêm bàng quang, viêm niệu đạo, nhiễm khuẩn phụ khoa; viêm amiđan, viêm họng, viêm phế quản phổi và viêm thùy phổi.

Tobradex

Thuốc mỡ và Huyền dịch nhỏ mắt Tobradex (tobramycin và dexamethasone) là những dạng thuốc kết hợp kháng sinh và steroid đa liều và vô trùng dùng tại chỗ ở mắt.

Targocid

Teicoplanin không gây kháng chéo với các nhóm kháng sinh khác. Sự kháng chéo giữa teicoplanin và vancomycin đôi khi được nhận thấy ở cầu khuẩn đường ruột.

Triprolidine hydrochlorid: thuốc kháng histamin

Triprolidin được dùng theo đường uống để điều trị triệu chứng một số bệnh dị ứng và thường được phối hợp với một số thuốc khác để điều trị ho, cảm lạnh

Trimetazidin: thuốc chống đau thắt ngực, vastarel

Trimetazidin hoạt động như một chất chuyển hóa, giúp bảo tồn mức năng lượng phosphat cao nội bào trong tế bào cơ tim, trimetazidin có tác dụng chống thiếu máu cơ tim cục bộ nhưng không ảnh hưởng đến huyết động

Triherpine

Hoạt chất chính trifluridine là một chất đối kháng chuyển hoá trong quá trình tổng hợp phân tử ADN. Nó ức chế sự tổng hợp protein cho virus và sự phát triển (nhân đôi) của virus Herpes simplex.

Tetracyclin

Tetracyclin có tác dụng trên nhiều vi khuẩn gây bệnh cả Gram âm và Gram dương, cả hiếu khí và kỵ khí; thuốc cũng có tác dụng trên Chlamydia, Mycoplasma, Rickettsia, Spirochaete.

Trihexyphenidyl

Trihexyphenidyl là một amin bậc 3 tổng hợp, kháng muscarin, trị Parkinson. Như các thuốc kháng muscarin khác, trihexyphenidyl có tác dụng ức chế hệ thần kinh đối giao cảm ngoại biên kiểu atropin, kể cả cơ trơn.