Vai trò và chức năng của Protein huyết tương

2022-08-16 09:59 AM

Proteins huyết tương là một nguồn amio acid của mô, khi các mô cạn kiệt protein, các protein huyết tương có thể hoạt động như một nguồn thay thế nhanh chóng.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các loại protein chính xuất hiện trong huyết tương là albumin, globulin, và fibrinogen.

Một chức năng quan trọng của albumin là cung cấp áp suất keo trong huyết tương, ngăn sự mất huyết tương từ các mao mạch.

Các globulins thực hiện một số chức năng của enzym trong huyết tương, nó cũng rất quan trọng, nó chịu trách nhiệm chính cho cả hai khả năng đáp ứng miễn dịch tự nhiên và đáp ứng miễn dịch thu được của cơ thể chống lại các sinh vật xâm lấn.

Fibrinogen polymerize tạo thành fibrin trong đông máu, từ đó hình thành các cục máu đông giúp sửa chữa những chỗ rò rỉ của hệ thống tuần hoàn.

Sự hình thành Protein huyết tương. Về cơ bản tất cả các albumin và fibrinogen của protein huyết tương, cũng như khoảng 50-80% các globulin, được hình thành trong gan. Lượng globulin còn lại được tạo thành gần như hoàn toàn trong các mô bạch huyết, chủ yếu là các gamma globulin chúng là các kháng thể được sử dụng trong hệ thống mễn dịch. Tốc độ hình thành protein huyết tương của gan có thể cực kỳ nhanh hơn 30g/ngày. Một số bệnh gây mất nhanh các protein huyết tương, ví dụ: bỏng nặng làm tróc phần lớn bề mặt da có thể gây ra sự mất vài lít huyết tương qua các vùng da bị trúc mỗi ngày. Việc sản xuất nhanh các protein huyết tương do gan đảm nhiệm có vai trò trong việc ngăn ngừa tử xong ở các trường hợp như vậy. Đôi khi, một người có bênh thận nặng có thể mất đến 20 gram protein huyết tương qua nước tiểu mỗi ngày, và protein huyết thanh này phải tiếp tục được sản xuất thay thế bởi gan.

Ở những người bị bệnh xơ gan, một lượng lớn các mô sợi phát triển giữa các tế bào nhu mô gan làm giảm khả năng tổng hợp protein huyết tương. Hiện tượng này dẫn tới làm giảm áp suất keo gây phù nề toàn cơ thể.

Proteins huyết tương là một nguồn amio acid của mô. Khi các mô cạn kiệt protein, các protein huyết tương có thể hoạt động như một nguồn thay thế nhanh chóng. Thật vậy, protein toàn phần huyết tương có thể được hấp thu vào trong tế bào bởi các đại thực bào mô thông qua quá trình ẩm bào; trong các tế bào này, chúng được chia nhỏ thành các amino acid sau đó được vận chuyển trở ngược lại máu và được sử dụng trên khắp cơ thể để tạo thành protein tế bào ở những nơi cần chúng. Bằng cách này, các protein huyết tương có chức năng như một phương tiện dự trữ protein di động và đại diện cho một nguồn amino acid có thể dùng bất cứ khi nào mô cần.

Trạng thái cân bằng có phục hồi giữa các protein huyết tương và các protein mô. Một trạng thái cân bằng tồn tại giữa các protein huyết tương, các amino acid huyết tương với protein mô. Trên cơ sở nghiên cứu theo dõi, người ta ước tính rằng bình thường khoảng 400g protein cơ thể là được tổng hợp và thoái hóa mỗi ngày như một hệ thống lưu thông liên tục của các amino acid giữa các loại protein khác nhau trong cơ thể. Ngay cả trong khi đói hay bệnh suy nhược nghiêm trọng, tỷ lệ tổng protein mô so với lượng protein huyết tương trong cơ thể vẫn ở mức tương đối khoảng 33: 1.

Cân bằng thuận nghịch giữa các protein mô

Hình. Cân bằng thuận nghịch giữa các protein mô, protein huyết tương và axit amin huyết tương.

Bởi vì trạng thái cân bằng đảo ngược giữa các protein huyết tương và các protein khác của cơ thể, nên một trong những phương pháp điều trị hiệu quả nhất cho sự thiếu hụt protein nặng, cấp tính là truyền tĩnh mạch protein huyết tương. Chỉ trong vòng vài ngày hoặc đôi khi trong vòng vài giờ, các amino acid của hệ thống protein được phân phối tới các tế bào của cơ thể tạo thành các protein mới khi cần.

Amino Acids thiết yếu và không thiết yếu. Mười trong số các amino acid thường có trong protein động vật có thể được tổng hợp trong tế bào, trong khi 10 amino acid còn lại khổng thể tự tổng hợp được hoặc chỉ tổng hợp được với một lượng nhỏ so với nhu cầu của cơ thể. Nhóm thứ hai này gồm các amino acid không tự tổng hợp được gọi là các amino acid thiết yếu. Sử dụng từ “thiết yếu” không có nghĩa rằng 10 amino acid tự tổng hợp được không cần thiết cho sự hình thành protein mà chỉ nói rằng những acid amino đó không cần thiết trong chế độ ăn uống, vì chúng có thể được tổng hợp trong cơ thể.

Sự tổng hợp các amino acid không thiết yếu phụ thuộc chủ yếu vào sự hình thành các α keto acids, đó là tiền thân của các amino acid tương ứng. Ví dụ, pyruvic acid, được tạo thành với số lượng lớn trong thời gian đường phân của glucose, là keto acid tiền thân của amino acid alanine. Sau đó, nhờ quá trình transamination, một gốc amino được chuyển đến cho các α keto acid, và phân tử oxy keto sẽ được chuyển tới các nguồn cung cấp gốc amino. Chú ý rằng các gốc được chuyển đến các acid pyruvic từ một hóa chất khác sẽ được liên kết chặt chẽ với các amino acids glutamine. Glutamine có mặt trong các mô với số lượng lớn, và một trong những chức năng chính của nó là để phục vụ như một kho gốc amin. Ngoài ra, các gốc amin có thể được chuyển từ asparagine, glutamic acid, và aspartic acid.

Tổng hợp alanin từ axit pyruvic bằng cách chuyển hóa

Hình. Tổng hợp alanin từ axit pyruvic bằng cách chuyển hóa.

Transamination được xúc tác bởi một số enzymes, trong đó có các aminotransferases, nó là dẫn suất của pyridoxine, một trong những vitamin B (B6). Nếu không có vitamin này, các acid amin được tổng hợp kém và sự tạo thành protein không bình thường.

Sử dụng protein để tạo năng lượng

Khi các tế bào được dự trữ đầy protein, thì khi bất kì một amino acid nào trong dịch cơ thể có thể được thoái hóa và sử dụng cung cấp năng lượng hoặc được dự trữ chủ yếu dưới dạng chất béo hoặc thứ yếu dưới dạng glycogen. Sự thoái hóa này xảy ra gần như hoàn toàn ở gan, và nó bắt đầu với việc khử amin.

Khử amin – cắt nhóm amin từ Amino Acids. Khử amin xảy ra chủ yếu bởi sự vận chuyển nhóm amin, có nghĩa là chuyển nhóm amin tới một số chất nhận nó. Quá trình này là đảo ngược của quá trình gắn gốc amin, để giải thích nó trước tiên nói đến việc tổng hợp các acid amin.

Một phần lớn quá trình khử amin xảy ra theo lược đồ vận chuyển amin sau đây:

Khử amin

Lưu ý từ lược đồ trên là nhóm amin từ amino acid được vận chuyển tới αketoglutaric acid, và bi ến nó thành acid glutamic. Acid glutamic có thể chuyển nhóm amin tới một chất khác hoặc giải phóng nó dưới dạng cấu trúc amoniac (NH3). Trong quá trình cắt nhóm amin, acid glutamic lại quay trở lại thành αketoglutaric acid, vì vậy chu kỳ có thể được lặp đi lặp lại nhiều lần. Để bắt đầu quá trình này, các amino acid dư thừa trong các tế bào, đặc biệt trong gan, gây kích hoạt số lượng lớn enzym aminotransferases, nó là các enzym chịu trách nhiệm chủ yếu khởi đầu khử amin.

Ure được hình thành bởi Gan. Amoniac được giải phóng trong quá trình khử amin của amino acid được lấy từ máu hầu hết được chuyển thành ure. Hai phân tử amoniac và một phân tử carbodioxide kết hợp được mô tả trong phản ứng sau:

Kết hợp amoniac và carbodioxide

Về cơ bản tất cả ure trong cơ thể được tổng hợp ở Gan. Trong trường hợp thiếu gan hoặc ở những người bị bệnh gan nghiêm trọng, amoniac sẽ tích tụ trong máu. Sự tích tụ amoniac này gây độc nghiêm trọng, đặc biệt với não, và có thể dẫn đến một tình trạng gọi là hôn mê gan (hepatic coma).

Các giai đoạn trong quá trình hình thành ure:

Hình thành ure

Sau khi được tạo thành, ure khuếch tán từ các tế bào gan vào dịch cơ thể và được đào thải qua thận.

Quá trình oxy hóa khử amin Amino Acids. Khi các amino acid đã bị khử amin, kết quả tạo ra các acid keto, trong hầu hết các trường hợp, nó bị oxy hóa để giải phóng năng lượng cho quá trình trao đổi chất. Quá trình oxy hóa này thường liên quan đến hai quá trình liên tiếp: (1) Acid keto acid được thay đổi thành một chất hóa học thích hợp có thể đi vào chu trình citric, và (2) chất này được phân hủy trong chu trình và được sử dụng tạo năng lượng giống như là acetyl coenzyme A (acetyl­CoA) có nguồn gốc từ carbohydrate và lipid. Nhìn chung, số lượng adenosine triphosphate được hình thành từ mỗi gram protein bị oxy hóa ít hơn so với lượng gram glucose bị oxy hóa.

Gluconeogenesis and Ketogenesis. Một số acid amino khử amin tương tự như các chất thường được sử dụng trong tế bào, chủ yếu là các tế bào gan, để tổng hợp glucose hoặc acid béo. Ví dụ, alanin khử amin là acid pyruvic, có thể được chuyển đổi thành một trong hai con đường glucose hoặc glucogen. Ngoài ra, nó còn có thể được chuyển thành acetylCoA, mà sau đó có thể được polime hóa tạo thành acid béo. Hơn nữa, hai phân tử acetylCoA có thể kết hợp với nhau tạo thành acid acetoacetic, là một trong những thể ceton.

Quá trình chuyển các amino acid thành glucose hoặc glycogen được gọi là gluconeogenesis, quá trình chuyển đổi amino acid thành acid keto hoặc acid béo được gọi là ketogenesis. Trong số 20 acid amin khử amin, có 18 phân tử có cấu trúc hóa học cho phép chúng chuyển đổi thành glucose, và 19 phân tử trong số đó có thể chuyển đổi thành acid béo.

Sự thoái hóa bắt buộc của Protein

Khi khẩu phần ăn của một người không có protein, thì một tỷ lệ nhất định protein cơ thể sẽ thoái hóa thành amino acid và sau đó chúng bị khử amin và oxy hóa. Quá trình này xảy ra với 20-30 gram protein mỗi ngày, nó được gọi là sự thoái hóa bắt buộc của protein (obligatory loss of proteins). Vì vậy, để ngăn chặn sự mất protein của cơ thể, trung bình mỗi người phải ăn một lượng khoảng 20-30 gram protein mỗi ngày, ngoài ra lượng protein này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm cả khối lượng cơ, hoạt động, và tuổi; vì vậy để đảm bảo mức độ an toàn,mỗi người được khuyến nghị tối thiểu nên dùng 60-75 gram mỗi ngày.

Tỷ lệ các loại amino acid khác nhau trong khẩu phần protein phải giống tỷ lệ trong mô cơ thể nếu toàn bộ protein là hoàn toàn có thể được sử dụng để tạo thành cấu trúc protein mới trong các mô. Nếu một loại amino acid thiết yếu nào đó có nồng độ thấp, thì những amino acid khác trở nên không sử dụng được bởi vì các tế bào tổng hợp toàn bộ các protein hoặc không tổng hợp gì cả. Các amino acid không thể sử dụng được sẽ bị khử amin và oxy hóa. Một protein có tỷ lệ các amino acid khác so với protein trung bình của cơ thể được gọi là protein một phần hay là một protein không hoàn chính, và một protein như vậy có ít quá trị dinh dưỡng hơn là một protein toàn phần hoàn chỉnh.

Ảnh hưởng đói lên sự giáng chức protein. Ngoại trừ 20-30 gram protein thoái hóa bắt buộc mỗi ngày, cơ thể sử dụng hầu như hoàn toàn carbohydrates hoặc chất béo để tạo năng lượng, khi chúng có sẵn. Tuy nhiên, sai vài tuần vì đói, khi lượng carbohydrates và chất béo dự trữ bắt đầu được sử dụng, các amino acid trong máu nhanh chóng được khử amin và oxy hóa tạo năng lượng. Từ thời điểm đó, các protein của mô sẽ thoái hóa nhanh chóng khoảng 125 gram mỗi ngày, và chức năng của tế bào nhanh chóng giảm đi. Bởi vì carbohydrates và chất béo thường được ưu tiên để tạo năng lượng hơn là sử dụng protein, nên carbohydrates và chất béo được gọi là các protein thay thế.

Bài viết cùng chuyên mục

Gen trong nhân tế bào kiểm soát tổng hợp protein

Tầm quan trọng DNA nằm trong khả năng kiểm soát sự hình thành của protein trong tế bào. Khi hai sợi của một phân tử DNA được tách ra, các bazơ purine và pyrimidine nhô ra ở mặt bên của mỗi sợi DNA.

Thuốc và vận động viên thể thao

Một vài vận động viên đã được biết đến là chết trong các sự kiện thể thao vì sự tương tác giữa các thuốc đó và norepinephrine, epinephrine được giải phóng bởi hệ thống thần kinh giao cảm trong khi tập luyện.

Chất dẫn truyền thần kinh: phân tử nhỏ tốc độ và tái chế

Trong hầu hết các trường hợp, các chất dẫn truyền thần kinh có phân tử nhỏ được tổng hợp tại bào tương của trạm trước synap và được vận chuyển tích cực vào túi chứa chất dẫn truyền.

Hệ thống Purkinje: vai trò gây ra co bóp đồng bộ của cơ tâm thất

Khi xung động đi đến tận cùng của các sợi Purkinje, nó được truyền qua khối cơ của tâm thất bởi chính các sợi cơ của tâm thất. Vận tốc dẫn truyền bây giờ chỉ 0,3 - 0,5m/s, bằng 1/6 trong các sợi Purkinje.

U đảo tụy: tăng tiết shock insulin và hạ đường huyết

Ở những bệnh nhân có khối u tiết insulin hoặc ở những bệnh nhân bị bệnh tiểu đường, bệnh nhân dùng quá nhiều insulin cho chính họ, các hội chứng đó được gọi là sốc insulin.

Ức chế đối kháng: cung phản xạ đồi kháng

Phản xạ gấp mạnh hơn này gửi các thông tin ức chế đến chi ban đầu và làm giảm độ co cơ ở chi này, nếu ta loại bỏ kích thích ở chi gấp mạnh hơn, chi ban đầu lại trở về co cơ với cường độ như ban đầu.

Trung tâm thần kinh điều khiển sự thèm ăn của cơ thể

Một số trung tâm thần kinh của vùng dưới đồi tham gia vào kiểm soát sự ăn, nhân bên của vùng hạ đồi hoạt động như trung tâm nuôi dưỡng, và kích thích vào vùng này ở động vật gây ra chứng ăn vô độ.

Giải phẫu và chức năng sinh lý của vỏ não

Cấu trúc mô học điển hình của bề mặt vỏ não, với các lớp liên tiếp các loại tế bào thần kinh khác nhau. Hầu hết các tế bào thần kinh chia làm ba loại: tế bào dạng hạt, tế bào hình thoi, và tế bào hình tháp.

Sự ảnh hưởng lẫn nhau của trục dưới đồi tuyến yên buồng trứng

Nếu nồng độ đỉnh LH không đạt đủ độ lớn, sự rụng trứng sẽ không xảy ra, và được gọi là chu kì không rụng trứng. Các giai đoạn của chu kì sinh dục vẫn tiếp tục, tuy nhiên trứng không rụng làm cho hoàng thể không phát triển.

Xung lực của động mạch

Áp lực bơm máu ở góc động mạch chủ đưuọc biểu diễn trên hình. Với một người lớn trẻ khỏe, huyết áp ở đầu mỗi nhịp đập sẽ gọi là huyết áp tâm thu, vào khoảng 120mmHg.

Tiêu cự của thấu kính: nguyên lý quang học nhãn khoa

Các tia sáng đi đến thấu kính hội tụ không phải là một chùm tia song song mà là phân kì bởi vì nguồn phát các tia sáng không đặt xa thấu kính đó.

Các hormone điều hòa tuyến sinh dục và những ảnh hưởng lên buồng trừng

Cả hai FSH và LH kích thích những tế bào đích tại buồng trứng bằng cách gắn đặc hiệu với các receptor FSH và LH trên màng các tế bào buồng trứng. Sau đó, những receptor được kích hoạt làm tăng khả năng bài tiết và thường kèm theo khả năng phát triển cũng như tăng sinh tế bào.

Vi tuần hoàn não: hệ thống mao mạch não

Thành của các tiểu động mạch nhỏ sát mao mạch trở lên rất dày ở những người có tăng huyết áp, và các tiểu động mạch đó duy trì tình trạng co thắt rõ rệt liên tục nhằm ngăn áp lực cao truyền đến mao mạch.

Đo lưu lượng máu não và tác động của hoạt động não bộ trên lưu lượng máu não

Chứng minh tác động của hoạt động thần kinh tại chỗ trên lưu lượng máu não bằng cách chỉ ra sự gia tăng đặc hiệu lưu lượng máu vùng chẩm ghi lại trên não một con mèo khi chiếu ánh sáng mạnh vào mắt nó trong một phút rưỡi.

Điểm nhiệt chuẩn trong điều nhiệt cơ thể

Điểm nhiệt chuẩn tới hạn của vùng dưới đồi, mà ở đó ở dưới mức run cơ và trên mức bắt đầu đổ mồ hôi, được xác định chủ yếu bởi hoạt động của receptor càm nhận nhiệt trong vùng trước thị-trước dưới đồi.

Đái tháo đường type 2: kháng insulin

Bệnh tiểu đường type 2 là phổ biến hơn so với type 1, chiếm khoảng 90% đến 95% của tất cả các bệnh nhân đái tháo đường. Trong hầu hết các trường hợp, sự khởi đầu của bệnh tiểu đường type 2 xảy ra sau tuổi 30, thường ở độ tuổi từ 50 đến 60.

Sự phát triển của điện thế hoạt động

Yếu tố nào đó làm tăng đôi chút điện thế màng từ -90mV hướng tới mức bằng không, điện thế tăng cao sẽ gây ra việc mở một số kênh natri có cổng điện thế.

Sự thay đổi nồng độ canxi và phosphate sinh lý ở dịch cơ thể không liên quan xương

Ở nồng độ canxi huyết tưong giảm một nửa, các thần kinh cơ ngoại biên trở nên dễ bị kích thích, trở nên co 1 cách tự nhiên,các xung động hình thành,sau đó lan truyền đến các thần kinh cơ ngoại biên gây ra hình ảnh co cơ cơn tetany điển hình.

Sự vận chuyển O2 trong máu và mô kẽ

Các loại khí có thể di chuyển từ nơi này đến nơi khác bằng cách khuếch tán và nguyên nhân của sự vận chuyển này là sự chênh lệch về phân áp từ vị trí đầu tiên cho tới vị trí tiếp theo.

Giải phẫu và chức năng của nhau thai

Các tế bào lá nuôi nhô ra, trở thành lông nhung, nơi mao mạch của nhau thai phát triển. Như vậy các nhung mao mang máu thai nhi, được bao quanh bởi các xoang chứa máu của mẹ.

Cấu trúc hóa học và sự tổng hợp insulin

Khi insulin được bài tiết vào máu, nó hầu như lưu thông ở dạng tự do. Bởi vì nó có thời gian bán hủy trung bình chỉ khoảng 6 phút nên phần lớn chúng bị loại bỏ khỏi tuần hoàn.

Chức năng vận động của thân não

Thân não hoạt động giống như một trạm chung chuyển cho các mệnh lệnh từ trung tâm thần kinh cao hơn. Ở phần tiếp theo, chúng ta sẽ bàn luận về vai trò của thân não trong việc chi phối cử động của toàn bộ cơ thể và giữ thăng bằng.

Cấu trúc chức năng tế bào của Phospholipid và Cholesterol - Đặc biệt đối với màng

Phospholipids và cholesterol hình thành các yếu tố cấu trúc các tế bào là tốc độ đổi mới chậm của các chất trong hầu hết các mô ngoài mô gan được tính theo tháng hoặc theo năm.

Sự khuếch tán chống lại quá trình vận chuyển tích cực

Mặc dù có nhiều sự khác biệt của những cơ chế cơ bản, khuếch tán có nghĩa là sự di chuyển ngẫu nhiên của phân tử chất, cũng có thể vượt qua khoảng giữa các phân tử hoặc kết hợp với protein mang.

Ảnh hưởng của insulin lên chuyển hóa carbohydrat

Tác dụng của insulin trong việc tăng cường nồng độ glucose bên trong tế bào cơ, trong trường hợp không có insulin, nồng độ glucose nội bào vẫn gần bằng không, mặc dù nồng độ glucose ngoại bào cao.