- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Vai trò và chức năng của Protein huyết tương
Vai trò và chức năng của Protein huyết tương
Proteins huyết tương là một nguồn amio acid của mô, khi các mô cạn kiệt protein, các protein huyết tương có thể hoạt động như một nguồn thay thế nhanh chóng.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Các loại protein chính xuất hiện trong huyết tương là albumin, globulin, và fibrinogen.
Một chức năng quan trọng của albumin là cung cấp áp suất keo trong huyết tương, ngăn sự mất huyết tương từ các mao mạch.
Các globulins thực hiện một số chức năng của enzym trong huyết tương, nó cũng rất quan trọng, nó chịu trách nhiệm chính cho cả hai khả năng đáp ứng miễn dịch tự nhiên và đáp ứng miễn dịch thu được của cơ thể chống lại các sinh vật xâm lấn.
Fibrinogen polymerize tạo thành fibrin trong đông máu, từ đó hình thành các cục máu đông giúp sửa chữa những chỗ rò rỉ của hệ thống tuần hoàn.
Sự hình thành Protein huyết tương. Về cơ bản tất cả các albumin và fibrinogen của protein huyết tương, cũng như khoảng 50-80% các globulin, được hình thành trong gan. Lượng globulin còn lại được tạo thành gần như hoàn toàn trong các mô bạch huyết, chủ yếu là các gamma globulin chúng là các kháng thể được sử dụng trong hệ thống mễn dịch. Tốc độ hình thành protein huyết tương của gan có thể cực kỳ nhanh hơn 30g/ngày. Một số bệnh gây mất nhanh các protein huyết tương, ví dụ: bỏng nặng làm tróc phần lớn bề mặt da có thể gây ra sự mất vài lít huyết tương qua các vùng da bị trúc mỗi ngày. Việc sản xuất nhanh các protein huyết tương do gan đảm nhiệm có vai trò trong việc ngăn ngừa tử xong ở các trường hợp như vậy. Đôi khi, một người có bênh thận nặng có thể mất đến 20 gram protein huyết tương qua nước tiểu mỗi ngày, và protein huyết thanh này phải tiếp tục được sản xuất thay thế bởi gan.
Ở những người bị bệnh xơ gan, một lượng lớn các mô sợi phát triển giữa các tế bào nhu mô gan làm giảm khả năng tổng hợp protein huyết tương. Hiện tượng này dẫn tới làm giảm áp suất keo gây phù nề toàn cơ thể.
Proteins huyết tương là một nguồn amio acid của mô. Khi các mô cạn kiệt protein, các protein huyết tương có thể hoạt động như một nguồn thay thế nhanh chóng. Thật vậy, protein toàn phần huyết tương có thể được hấp thu vào trong tế bào bởi các đại thực bào mô thông qua quá trình ẩm bào; trong các tế bào này, chúng được chia nhỏ thành các amino acid sau đó được vận chuyển trở ngược lại máu và được sử dụng trên khắp cơ thể để tạo thành protein tế bào ở những nơi cần chúng. Bằng cách này, các protein huyết tương có chức năng như một phương tiện dự trữ protein di động và đại diện cho một nguồn amino acid có thể dùng bất cứ khi nào mô cần.
Trạng thái cân bằng có phục hồi giữa các protein huyết tương và các protein mô. Một trạng thái cân bằng tồn tại giữa các protein huyết tương, các amino acid huyết tương với protein mô. Trên cơ sở nghiên cứu theo dõi, người ta ước tính rằng bình thường khoảng 400g protein cơ thể là được tổng hợp và thoái hóa mỗi ngày như một hệ thống lưu thông liên tục của các amino acid giữa các loại protein khác nhau trong cơ thể. Ngay cả trong khi đói hay bệnh suy nhược nghiêm trọng, tỷ lệ tổng protein mô so với lượng protein huyết tương trong cơ thể vẫn ở mức tương đối khoảng 33: 1.
Hình. Cân bằng thuận nghịch giữa các protein mô, protein huyết tương và axit amin huyết tương.
Bởi vì trạng thái cân bằng đảo ngược giữa các protein huyết tương và các protein khác của cơ thể, nên một trong những phương pháp điều trị hiệu quả nhất cho sự thiếu hụt protein nặng, cấp tính là truyền tĩnh mạch protein huyết tương. Chỉ trong vòng vài ngày hoặc đôi khi trong vòng vài giờ, các amino acid của hệ thống protein được phân phối tới các tế bào của cơ thể tạo thành các protein mới khi cần.
Amino Acids thiết yếu và không thiết yếu. Mười trong số các amino acid thường có trong protein động vật có thể được tổng hợp trong tế bào, trong khi 10 amino acid còn lại khổng thể tự tổng hợp được hoặc chỉ tổng hợp được với một lượng nhỏ so với nhu cầu của cơ thể. Nhóm thứ hai này gồm các amino acid không tự tổng hợp được gọi là các amino acid thiết yếu. Sử dụng từ “thiết yếu” không có nghĩa rằng 10 amino acid tự tổng hợp được không cần thiết cho sự hình thành protein mà chỉ nói rằng những acid amino đó không cần thiết trong chế độ ăn uống, vì chúng có thể được tổng hợp trong cơ thể.
Sự tổng hợp các amino acid không thiết yếu phụ thuộc chủ yếu vào sự hình thành các α keto acids, đó là tiền thân của các amino acid tương ứng. Ví dụ, pyruvic acid, được tạo thành với số lượng lớn trong thời gian đường phân của glucose, là keto acid tiền thân của amino acid alanine. Sau đó, nhờ quá trình transamination, một gốc amino được chuyển đến cho các α keto acid, và phân tử oxy keto sẽ được chuyển tới các nguồn cung cấp gốc amino. Chú ý rằng các gốc được chuyển đến các acid pyruvic từ một hóa chất khác sẽ được liên kết chặt chẽ với các amino acids glutamine. Glutamine có mặt trong các mô với số lượng lớn, và một trong những chức năng chính của nó là để phục vụ như một kho gốc amin. Ngoài ra, các gốc amin có thể được chuyển từ asparagine, glutamic acid, và aspartic acid.
Hình. Tổng hợp alanin từ axit pyruvic bằng cách chuyển hóa.
Transamination được xúc tác bởi một số enzymes, trong đó có các aminotransferases, nó là dẫn suất của pyridoxine, một trong những vitamin B (B6). Nếu không có vitamin này, các acid amin được tổng hợp kém và sự tạo thành protein không bình thường.
Sử dụng protein để tạo năng lượng
Khi các tế bào được dự trữ đầy protein, thì khi bất kì một amino acid nào trong dịch cơ thể có thể được thoái hóa và sử dụng cung cấp năng lượng hoặc được dự trữ chủ yếu dưới dạng chất béo hoặc thứ yếu dưới dạng glycogen. Sự thoái hóa này xảy ra gần như hoàn toàn ở gan, và nó bắt đầu với việc khử amin.
Khử amin – cắt nhóm amin từ Amino Acids. Khử amin xảy ra chủ yếu bởi sự vận chuyển nhóm amin, có nghĩa là chuyển nhóm amin tới một số chất nhận nó. Quá trình này là đảo ngược của quá trình gắn gốc amin, để giải thích nó trước tiên nói đến việc tổng hợp các acid amin.
Một phần lớn quá trình khử amin xảy ra theo lược đồ vận chuyển amin sau đây:
Lưu ý từ lược đồ trên là nhóm amin từ amino acid được vận chuyển tới αketoglutaric acid, và bi ến nó thành acid glutamic. Acid glutamic có thể chuyển nhóm amin tới một chất khác hoặc giải phóng nó dưới dạng cấu trúc amoniac (NH3). Trong quá trình cắt nhóm amin, acid glutamic lại quay trở lại thành αketoglutaric acid, vì vậy chu kỳ có thể được lặp đi lặp lại nhiều lần. Để bắt đầu quá trình này, các amino acid dư thừa trong các tế bào, đặc biệt trong gan, gây kích hoạt số lượng lớn enzym aminotransferases, nó là các enzym chịu trách nhiệm chủ yếu khởi đầu khử amin.
Ure được hình thành bởi Gan. Amoniac được giải phóng trong quá trình khử amin của amino acid được lấy từ máu hầu hết được chuyển thành ure. Hai phân tử amoniac và một phân tử carbodioxide kết hợp được mô tả trong phản ứng sau:
Về cơ bản tất cả ure trong cơ thể được tổng hợp ở Gan. Trong trường hợp thiếu gan hoặc ở những người bị bệnh gan nghiêm trọng, amoniac sẽ tích tụ trong máu. Sự tích tụ amoniac này gây độc nghiêm trọng, đặc biệt với não, và có thể dẫn đến một tình trạng gọi là hôn mê gan (hepatic coma).
Các giai đoạn trong quá trình hình thành ure:
Sau khi được tạo thành, ure khuếch tán từ các tế bào gan vào dịch cơ thể và được đào thải qua thận.
Quá trình oxy hóa khử amin Amino Acids. Khi các amino acid đã bị khử amin, kết quả tạo ra các acid keto, trong hầu hết các trường hợp, nó bị oxy hóa để giải phóng năng lượng cho quá trình trao đổi chất. Quá trình oxy hóa này thường liên quan đến hai quá trình liên tiếp: (1) Acid keto acid được thay đổi thành một chất hóa học thích hợp có thể đi vào chu trình citric, và (2) chất này được phân hủy trong chu trình và được sử dụng tạo năng lượng giống như là acetyl coenzyme A (acetylCoA) có nguồn gốc từ carbohydrate và lipid. Nhìn chung, số lượng adenosine triphosphate được hình thành từ mỗi gram protein bị oxy hóa ít hơn so với lượng gram glucose bị oxy hóa.
Gluconeogenesis and Ketogenesis. Một số acid amino khử amin tương tự như các chất thường được sử dụng trong tế bào, chủ yếu là các tế bào gan, để tổng hợp glucose hoặc acid béo. Ví dụ, alanin khử amin là acid pyruvic, có thể được chuyển đổi thành một trong hai con đường glucose hoặc glucogen. Ngoài ra, nó còn có thể được chuyển thành acetylCoA, mà sau đó có thể được polime hóa tạo thành acid béo. Hơn nữa, hai phân tử acetylCoA có thể kết hợp với nhau tạo thành acid acetoacetic, là một trong những thể ceton.
Quá trình chuyển các amino acid thành glucose hoặc glycogen được gọi là gluconeogenesis, quá trình chuyển đổi amino acid thành acid keto hoặc acid béo được gọi là ketogenesis. Trong số 20 acid amin khử amin, có 18 phân tử có cấu trúc hóa học cho phép chúng chuyển đổi thành glucose, và 19 phân tử trong số đó có thể chuyển đổi thành acid béo.
Sự thoái hóa bắt buộc của Protein
Khi khẩu phần ăn của một người không có protein, thì một tỷ lệ nhất định protein cơ thể sẽ thoái hóa thành amino acid và sau đó chúng bị khử amin và oxy hóa. Quá trình này xảy ra với 20-30 gram protein mỗi ngày, nó được gọi là sự thoái hóa bắt buộc của protein (obligatory loss of proteins). Vì vậy, để ngăn chặn sự mất protein của cơ thể, trung bình mỗi người phải ăn một lượng khoảng 20-30 gram protein mỗi ngày, ngoài ra lượng protein này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm cả khối lượng cơ, hoạt động, và tuổi; vì vậy để đảm bảo mức độ an toàn,mỗi người được khuyến nghị tối thiểu nên dùng 60-75 gram mỗi ngày.
Tỷ lệ các loại amino acid khác nhau trong khẩu phần protein phải giống tỷ lệ trong mô cơ thể nếu toàn bộ protein là hoàn toàn có thể được sử dụng để tạo thành cấu trúc protein mới trong các mô. Nếu một loại amino acid thiết yếu nào đó có nồng độ thấp, thì những amino acid khác trở nên không sử dụng được bởi vì các tế bào tổng hợp toàn bộ các protein hoặc không tổng hợp gì cả. Các amino acid không thể sử dụng được sẽ bị khử amin và oxy hóa. Một protein có tỷ lệ các amino acid khác so với protein trung bình của cơ thể được gọi là protein một phần hay là một protein không hoàn chính, và một protein như vậy có ít quá trị dinh dưỡng hơn là một protein toàn phần hoàn chỉnh.
Ảnh hưởng đói lên sự giáng chức protein. Ngoại trừ 20-30 gram protein thoái hóa bắt buộc mỗi ngày, cơ thể sử dụng hầu như hoàn toàn carbohydrates hoặc chất béo để tạo năng lượng, khi chúng có sẵn. Tuy nhiên, sai vài tuần vì đói, khi lượng carbohydrates và chất béo dự trữ bắt đầu được sử dụng, các amino acid trong máu nhanh chóng được khử amin và oxy hóa tạo năng lượng. Từ thời điểm đó, các protein của mô sẽ thoái hóa nhanh chóng khoảng 125 gram mỗi ngày, và chức năng của tế bào nhanh chóng giảm đi. Bởi vì carbohydrates và chất béo thường được ưu tiên để tạo năng lượng hơn là sử dụng protein, nên carbohydrates và chất béo được gọi là các protein thay thế.
Bài viết cùng chuyên mục
Tăng huyết áp: tăng thể tích dịch gây tăng cung lượng tim hoặc kháng lực ngoại vi
Bất cứ sự vượt quá lưu lượng máu chảy qua một mô, đều làm co mạch cục bộ và làm giảm lưu lượng máu về bình thường. Hiện tượng này được gọi là "tự điều hòa", điều đó có nghĩa đơn giản là sự điều hòa lưu lượng máu của chính mô đó.
Sự đào thải các hormone khỏi hệ tuần hoàn
Có hai yếu tố có thể làm tăng hoặc giảm nồng độ của các hormone trong máu, yếu tố là mức độ bài tiết hormone vào máu và yếu tố mức độ đào thải hormone ra khỏi máu.
Điều khiển của gen trong cơ thể người
Một số các protein trong tế bào là protein cấu trúc, nó kết hợp với những phân tử lipid khác và carbohydrate. Tuy nhiên, phần lớn các protein là enzyme xúc tác các phản ứng hóa học khác nhau trong tế bào.
Các hormone điều hòa tuyến sinh dục và những ảnh hưởng lên buồng trừng
Cả hai FSH và LH kích thích những tế bào đích tại buồng trứng bằng cách gắn đặc hiệu với các receptor FSH và LH trên màng các tế bào buồng trứng. Sau đó, những receptor được kích hoạt làm tăng khả năng bài tiết và thường kèm theo khả năng phát triển cũng như tăng sinh tế bào.
Chứng ngừng thở lúc ngủ: kiểm soát hô hấp
Ngừng thở khi ngủ có thể gây ra bởi tắc nghẽn đường hô hấp trên, đặc biệt là hầu hoặc do sự tự phát xung và dẫn truyền của trung tâm thần kinh bị suy giảm.
Trao đổi chất qua thành mạch máu: cân bằng starling
Lượng dịch lọc ra bên ngoài từ các đầu mao động mạch của mao mạch gần bằng lượng dịch lọc trở lại lưu thông bằng cách hấp thu. Chênh lệch một lượng dịch rất nhỏ đó về tim bằng con đường bạch huyết.
Receptor: sự nhậy cảm khác nhau của các receptor
Mỗi loại cảm giác cơ bản mà chúng ta có thể biết được như đau, sờ, nhìn, âm thanh và nhiều loại khác được gọi là một phương thức cảm giác.
Sinh lý thần kinh hành não
Hành não là phần thần kinh trung ương tiếp nối với tủy sống, nằm ở phần thấp nhất của hộp sọ, ngay sát trên lỗ chẩm. Hành não là nơi xuất phát của nhiều dây thần kinh sọ (từ dây V đến dây XII) trong đó quan trọng nhất là dây X.
Rung thất: rối loạn nhịp tim
Rung thất gây ra bởi nhịp phát nhịp trong khối cơ thất, gây ra khử cực toàn cơ thất, tiếp sau đó là 1 nhịp khác, rồi tiếp tục, và cuối cùng điều hòa ngược chính nó để tái khử cưc khối cơ thất liên tục không ngừng.
Tổng quan tác dụng của PTH
PTH kích thích tiêu hủy xương, giải phóng canxi vào dịch ngoại bào, làm tăng tái hấp thu canxi và giảm tái hấp thu phosphate của ống thận, dẫn đến giảm bài tiết canxi và tăng bài tiết phosphate.
Cung lượng tim: chỉ số khi nghỉ ngơi và khi gắng sức
Cung lượng tim được điều chỉnh suốt cuộc đời thông qua chuyển hóa cơ bản chung của cơ thể. Vì vậy chỉ số cung lượng tim giảm biểu thị sự giảm hoạt động thể chất hay giảm khối cơ tương ứng với tuổi.
Cơ chế kiểm soát lưu lượng máu đến mô cơ thể
Kiểm soát tức thời đạt được bằng cách co hoặc giãn các tiểu động mạch, mao mạch và cơ vòng trước mao mạch, trong vài giây đến vài phút. Kiểm soát lâu dài thay đổi từ từ, trong khoảng vài ngày, vài tuần thậm chí hàng tháng.
Sự thay đổi nồng độ canxi và phosphate sinh lý ở dịch cơ thể không liên quan xương
Ở nồng độ canxi huyết tưong giảm một nửa, các thần kinh cơ ngoại biên trở nên dễ bị kích thích, trở nên co 1 cách tự nhiên,các xung động hình thành,sau đó lan truyền đến các thần kinh cơ ngoại biên gây ra hình ảnh co cơ cơn tetany điển hình.
Chức năng tủy thượng thận: giải phóng adrenalin và noradrenalin
Adrenalin và noradrenalin trong vòng tuần hoàn có tác dụng gần như giống nhau trên các cơ quan khác nhau và giống tác dụng gây ra bởi sự kích thích trực tiếp hệ giao cảm.
Phối hợp các chức năng của cơ thể qua chất dẫn truyền hóa học
Hormone được vận chuyển trong hệ tuần hoàn đến các tế bào đích trong cơ thể, gồm cả tế bào trong hệ thần kinh, tại nơi chúng gắn vào các receptor và tạo ra sự phản hồi của tế bào.
Trạm thần kinh: sự chuyển tiếp các tín hiệu
Một số lượng lớn các tận cùng thần kinh từ mỗi sợi đến nằm trên các nơ-ron gần nhất trong “vùng” của nó, nhưng một số lượng nhỏ hơn các tận cùng thần kinh thì nằm trên các nơ-ron cách rất xa.
Tác dụng của cortisol lên chuyển hóa carbohydrate
Tác dụng chuyển hóa của cortisol và glucocorticoid khác được biết nhiều nhất là tác dụng kích thích tạo đường mới tại gan, mức tăng tạo đường mới dưới tác dụng của cortisol có thể tăng từ 6 đến 10 lần.
TSH của thùy trước tuyến yên được điều hòa bởi TRH từ vùng dưới đồi
Sự bài tiết TSH của thùy trước tuyến yên được kiểm soát bởi hormon vùng dưới đồi, thyrotropin releasing hormone, được bài tiết từ tận cùng thần kinh ở vùng lồi giữa vùng dưới đồi.
Các giai đoạn bài tiết ở dạ dày
Bài tiết ở dạ dày ở giai đoạn kích thích tâm lý diễn ra thậm chí trước khi thức ăn đi vào dạ dày, đặc biệt khi đang được ăn. Sự bài tiết này là kết quả của quá trình trước khi thức ăn vào miệng như nhìn, ngửi, nghĩ hoặc nếm thức ăn.
Hạ ô xy máu: bộ chuyển mạch HIFs đáp ứng cơ thể
Khi cơ thể được cung cấp đủ lượng oxy, những dưới - đơn vị của HIF khi hoạt động đòi hỏi hoạt hóa hàng loạt gen, sẽ bị điều hòa giảm và bất hoạt bằng những HIF hydroxylase.
Dinh dưỡng của trẻ sơ sinh
Vấn đề đặc biệt là thường xuyên phải cung cấp đủ dịch cho đứa bé bởi vì tỉ lệ dịch của trẻ sơ sinh là gấp bảy lần so với người lớn, và cung cấp sữa mẹ cần phải có một vài ngày để sản xuất.
Receptor: sự thích nghi và chức năng dự báo receptor tốc độ
Sự thích ứng của các loại thụ thể khác nhau cho thấy sự thích nghi nhanh chóng của một số thụ thể và sự thích ứng chậm của những thụ thể khác.
Glucagon và tác dụng lên chuyển hóa glucose
Các tác dụng ấn tượng nhất của glucagon là khả năng gây thoái hóa glycogen trong gan, do đó làm tăng nồng độ glucose máu trong vòng vài phút.
Block nhĩ thất hoàn toàn (block độ III): chặn đường truyền tín hiệu điện tim
Trong block độ III, không có mối liên quan giữa sóng P với phức bộ QRS vì thất đã “thoát” khỏi sự điển khiển của nhĩ và đang đập theo nhịp của chính nó.
Sinh lý điều trị đái tháo đường
Insulin có một số dạng. Insulin "Thường xuyên" có thời gian tác dụng kéo dài 3-8 giờ, trong khi các hình thức khác của insulin được hấp thụ chậm từ chỗ tiêm và do đó có tác dụng kéo dài đến 10 đến 48 giờ.