- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Tủy sống: tổ chức hoạt động chức năng vận động
Tủy sống: tổ chức hoạt động chức năng vận động
Mỗi đốt tủy có hàng triệu neurons trong chất xám. Đặt sang một bên các neuron trung gian truyền tín hiệu cảm giác, chúng ta có 2 loại neurons còn lại: neurons vận động tại sừng trước tủy sống và các neurons liên hợp.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Chất xám tủy sống là vùng trung tâm của các phản xạ tủy. Các thông tin cảm giác được truyền vào tủy sống thông qua dây thần kinh cảm giác, hay rễ sau của thần kinh sống. Sau khi vào tủy sống, thông tin được truyền đi theo 2 đường: một đường dừng lại ở ngay ở chất xám tủy sống và gây nên các phản xạ do đốt tủy đó chi phối, một đường tiếp tục đi lên các trung tâm cao hơn của hệ thần kinh, lên các đốt sống tủy cao hơn hoặc thân não, hay thậm chí là vỏ não.
Mỗi đốt tủy có hàng triệu neurons trong chất xám. Đặt sang một bên các neuron trung gian truyền tín hiệu cảm giác, chúng ta có 2 loại neurons còn lại: neurons vận động tại sừng trước tủy sống và các neurons liên hợp.
Neurons vận động
Nằm ở sừng trước tủy sống, có kích thước lớn gấp 1,5 đến 2 lần các loại neuron khác. Chúng gửi các xung động vận động ra khỏi tủy sống qua rễ trước dây thần kinh sống và tác động trực tiếp lên cơ vân. Các neurons vận động lại được chia làm 2 loại: neurons vận động alpha và neurons vận động gamma.
Neurons vận động alpha
Gửi các xung thần kinh qua các sợi thần kinh vận động lớn type A (Aα), đường kính trung bình khoảng 14 micromet, phân chia nhiều nhánh sau khi đi vào cơ vân, chi phối các sợi cơ vân lớn. Kích thích 1 sợi thần kinh Aα gây co từ vài ba đến hàng trăn sợi cơ vân. Sợi Aα và các sợi cơ vân chi phối tạo thành một đơn vị vận động.
Neurons vận động gamma
Nhỏ hơn, nằm gần neurons alpha, số lượng bằng 1 nửa neurons alpha. Neurons gamma gửi xung động thần kinh qua các sợi thần kinh Aγ (nhỏ hơn nhiều so với Aα, đường kính khoảng 5 µm, đi tới chi phối các sợi cơ nhỏ chuyên biệt gọi là suốt cơ. Neurons này hoạt động thường xuyên ở các mức độ khác nhau để duy trì trương lực cơ.
Neurons liên hợp
Các neuron liên hợp xuất hiện trong tất cả các vùng của chất xám tủy sống, sừng trước, sừng sau, vùng trung gian số lượng gấp khoảng 30 lần số neuron vận động tại sừng trước tủy sống, có kích thước nhỏ, dễ kích thích, thường xuyên hoạt động một cách tự nhiên và có khả năng gửi đến 1500 xung động 1 giây. Chúng kết nối với nhiều tế bào khác, và phần nhiều trong số chúng có synap trực tiếp với các tế bào thần kinh vận động sừng trước tủy sống. Các liên kết giữa các neuron liên hợp và neuron vận động chịu trách nhiệm cho phần lớn cho chức năng phân tích và xử lý thông tin của tủy sống.
Hình. Kết nối của các sợi cảm giác ngoại vi và sợi vỏ não với các tế bào thần kinh giữa và các tế bào thần kinh vận động phía trước của tủy sống.
Về cơ bản tất cả các type của các liên kết thần kinh đều được tìm thấy ở các neuron liên hợp tủy sống, bao gồm phân kì, hội tụ và giải phóng- lặp lại, và một vài dạng liên kết khác. Đánh giá về vai trò của các liên kết khác nhau này trong việc thực hiện các phản xạ tủy.
Chỉ rất ít xung động cảm giác từ dây thần kinh sống hoặc các xung động thần kinh từ vỏ não tác động trực tiếp lên neuron vận động sừng trước tủy. Thay vào đó, hầu hết tất cả các xung động này được truyền đầu tiên tới các neuron liên hợp, nơi chúng được xử lí một cách thích hợp. Như vậy, dải vỏ tủy từ vỏ não đều tận cùng ở các neuron liên hợp tại tủy sống, nơi các xung động được tổng hợp cùng với các xung động từ các dải khác hoặc từ dây thần kinh sống trước khi được truyền đến các neuron vận động để điều khiển chức năng vận động.
Tế bào Renshaw
Nằm ở sừng trước tủy sống, gần các neuron vận động, bao gồm một số lượng lớn các tế bào có kích thước nhỏ. Sau khi sợi trục của neuron vận động rời khỏi thân tế bào, ngay lập tức các nhánh bên của sợi trục đi đến kích thích tế bào Renshaw liền kề, sau đó tế bào Renshaw lại truyền các tín hiệu ức chế đến các neuron xung quanh neuron vận động đó. Như vậy, khi một neuron được kích thích thì các neuron xung quanh nó sẽ bị ức chế, gọi là ức chế bên. Điều này là rất quan trọng vì: hệ thống thần kinh vận động sử dụng ức chế bên để tập trung, hoặc tinh chỉnh các tín hiệu của nó, cũng giống như cách mà hệ thần kinh cảm giác sử dụng để duy trì việc truyền các tín hiệu cơ bản cần thiết và hạn chế lan truyền tín hiệu ra xung quanh.
Liên kết liên đốt tủy: Hơn một nửa các sợi thần kinh đi lên và đi xuống trong tuỷ là các sợi thần kinh liên đốt tủy. Các sợi thần kinh này chạy từ đốt tủy này sang đốt tủy khác. Thêm vào đó, sau khi các sợi thần kinh cảm giác đi vào tủy sống qua rễ sau thần kinh sống, chúng lại chia nhánh chạy lên trên và xuống dưới trong tủy sống, một vài sợi chỉ truyền tín hiệu đến 1 hoặc 2 đốt tủy, trong khi các sợi khác truyền tín hiệu đến nhiều đốt. Các sợi liên đốt tủy này là đường dẫn truyền của các phản xạ liên đốt tủy, trong đó có phản xạ phối hợp vận động của mặt trước và mặt sau chi.
Bài viết cùng chuyên mục
Giảm chức năng thận: gây tăng huyết áp mãn tính
Mức độ tăng vừa phải của huyết áp cũng dẫn đến sự rút ngắn kỳ vọng sống. Tăng huyết áp nghiêm trọng nghĩa là giá trị huyết áp trung bình tăng 50% hoặc ở trên ngưỡng bình thường thì kỳ vọng sống là không lớn hơn một vài năm, trừ khi được điều trị thích hợp.
Động tác bước và đi bộ: phản xạ tư thế
Các thông tin cảm giác từ bàn chân hay cảm giác tư thế từ các khớp đóng một vai trò quan trọng trong việc điều khiển áp lực bàn chân và bước đi liên tục.
Phản xạ của dạ dày ruột
Sự sắp xếp về mặt giải phẫu của hệ thần kinh ruột và các đường kết nối của nó với hệ thần kinh thực vật giúp thực hiện ba loại phản xạ dạ dày-ruột có vai trò thiết yếu.
Sự lan truyền của áp lực đẩy máu ra các mạch máu ngoại biên
Sự duy trì trương lực mạch làm giảm lực đẩy vì mạch máu càng thích ứng tốt thì lượng máu càng lớn được đẩy về phía trước do sự gia tăng áp lực.
Các chức năng sinh lý của gan
Gan tổng hợp acid béo từ glucid, protid và từ các sản phẩm thoái hóa của lipid, acid béo được chuyển hóa theo chu trình.
Biệt hóa tế bào cơ thể người
Trên thực tế, điện tử micrographs gợi ý rằng một số phân đoạn của vòng xoắn DNA được quấn xung quanh lõi histone trở nên rất đặc rằng họ không còn tháo dây đã cuốn để tạo thành các phân tử RNA.
Các receptor ở các cơ quan đích hệ giao cảm và phó giao cảm
Các receptor nằm ở mặt ngoài của màng tế bào. Sự bám của các chất dẫn truyền thần kinh vào các receptor gây ra sư thay đổi về hình dạng trong cấu trúc của phân tử protein. Kế tiếp, phân tử protein bị biến đổi sẽ kích thích hoặc ức chế tế bào.
Thông khí phế nang: khoảng chết và tác động của chúng
Trong thì thở ra, khí trong khoảng chết được thở ra đầu tiên, trước khi bất kỳ khí từ phế nang. Do đó, khoảng chết không thuận lợi cho loại bỏ khí thở ra từ phổi.
Xung lực của động mạch
Áp lực bơm máu ở góc động mạch chủ đưuọc biểu diễn trên hình. Với một người lớn trẻ khỏe, huyết áp ở đầu mỗi nhịp đập sẽ gọi là huyết áp tâm thu, vào khoảng 120mmHg.
Hệ thống đệm hemoglobin cho PO2 ở mô
O2 có thể thay đổi đáng kể, từ 60 đến hơn 500 mm Hg, nhưng PO2 trong các mô ngoại vi không thay đổi nhiều hơn vài mmHg so với bình thường, điều này đã chứng minh rõ vai trò "đệm oxy" ở mô của hệ thống hemoglobin trong máu.
Chu chuyển của tim
Tâm nhĩ hoạt động như một bơm khởi đầu cho tâm thất, và tâm thất lần lượt cung cấp nguồn năng lượng chính cho sự vận chuyển máu qua hệ thống mạch trong cơ thể.
Cung lượng tim: tuần hoàn tĩnh mạch điều hòa cung lượng tim
Đề đánh giá ảnh hưởng của hệ thống tuần hoàn ngoại vi, trước hết, chúng tôi đã loại bỏ tim và phổi trên động vật thực nghiệm và thay bằng hệ thống hỗ trọ tim phổi nhân tạo.
Hệ tuần hoàn: chức năng chính
Khi dòng máu qua mô, ngay lập tức quay lại tim qua hệ tĩnh mạch. Tim đáp ứng tự động với sự tăng máu đến bằng việc bơm máu trở lại động mạch.
Cơn nhịp nhanh nhĩ: rối loạn nhịp tim
Nhanh nhĩ hay nhanh bộ nối (nút), cả hai đều được gọi là nhịp nhanh trên thất, thường xảy ra ở người trẻ, có thể ở người khỏe mạnh, và những người này thông thường có nguy cơ nhịp nhau sau tuổi vị thành niên.
Vai trò trung tâm của Glucose trong chuyển hóa Carbohydrate
Sản phẩm cuối cùng của quá trình tiêu hóa carbohydrate trong đường tiêu hóa hầu như toàn bộ là glucose, fructose và galactose - với glucose trung bình chiếm khoảng 80 phần trăm.
Vai trò của nước bọt trong việc vệ sinh răng miệng
Miệng luôn luôn phải chịu đựng một lượng lớn vi khuẩn gây bệnh có khả năng hủy hoại mô một cách dễ dàng và gây nên sâu răng. Nước bọt giúp ngăn cản quá trình có hại này theo một số cách.
Tổng quan tác dụng của PTH
PTH kích thích tiêu hủy xương, giải phóng canxi vào dịch ngoại bào, làm tăng tái hấp thu canxi và giảm tái hấp thu phosphate của ống thận, dẫn đến giảm bài tiết canxi và tăng bài tiết phosphate.
Lưu lượng máu mạch vành bình thường
Lưu lượng mạch vành trái giảm trong thời kì tâm thu, khác với lại các mạch khác trong cơ thể. Bởi vì trong thời kì tâm thu, mạch vành bị nén lại mạnh mẽ tho co cơ tim của thất trái.
Sự đào thải các hormone khỏi hệ tuần hoàn
Có hai yếu tố có thể làm tăng hoặc giảm nồng độ của các hormone trong máu, yếu tố là mức độ bài tiết hormone vào máu và yếu tố mức độ đào thải hormone ra khỏi máu.
Tinh dịch của nam giới
Tinh trùng có thể tồn tại khá lâu trong đường sinh dục nam, nhưng một khi đã xuất tinh, chúng chỉ có thể sống được khoảng 24 đến 48 giờ ở nhiệt độ cơ thể người.
Sóng vận mạch huyết áp: dao động của hệ thống điều chỉnh phản xạ huyết áp
Khoảng thời gian cho mỗi chu kỳ là 26 giây đối với chó đã gây mê, 7-10 giây ở người không gây mê. Sóng này được gọi là sóng vận mạch hay sóng Mayer.
Dịch vào ra của cơ thể: cân bằng trong trạng thái ổn định
Dịch trong cơ thể rất hằng định, bởi vì nó liên tục được trao đổi với môi trường bên ngoài cũng như với các bộ phận khác trong cơ thể.
Chức năng thần kinh: xử lý của synap và lưu trữ thông tin
Synap là điểm tiếp nối từ dây thần kinh này đến dây thần kinh khác. Tuy nhiên, điều quan trọng được nói đến ở đây là các synap này sẽ giúp cho sự lan truyền của tín hiệu thần kinh đi theo những hướng nhất định.
Sự bảo vệ cơ thể và tái sản xuất
Hệ miễn dịch có các vai trò phân biệt tế bào của cơ thể với tế bào và các chất lạ thường; phá hủy chúng nhờ đại thực bào hoặc tạo ra các lympho bào và prôtein đặc hiệu hoặc làm vô hiệu hoá các kháng nguyên.
Đau thắt ngực trong bệnh mạch vành
Các chất có tính axit, chẳng hạn như axit lactic hoặc các sản phẩm làm giảm đau khác, chẳng hạn như histamine, kinin hoặc các enzym phân giải protein của tế bào, không bị loại bỏ đủ nhanh bởi dòng máu mạch vành di chuyển chậm.