Truyền suy nghĩ trí nhớ và thông tin khác giữa hai bán cầu đại não: chức năng thể chai và mép trước trong

2021-12-06 01:52 PM

Hai bán cầu đại não có khả năng độc lập trong ý thức, trí nhớ, giao tiếp và điều khiển chức năng vận động. Thể chai cần thiết cho hai bán cầu trong các hoạt động phối hợp ở mức tiềm thức nông.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các sợi của thể chai (corpus callosum) giữ mối liên lạc hai chiều phong phú giữa hầu hết các vùng vỏ não tương ứng của hai bán cầu đại não trừ phần trước thùy thái dương; những vùng thuộc thùy thái dương này, đặc biệt bao gồm cả hạnh nhân (amygdala), được liên hệ với nhau bởi các sợi đi qua mép trước (anterior commissure).

Do hầu hết các sợi nằm trong thể chai, người ta đã giả định ngay từ đầu rằng cấu trúc này phải có một số chức năng quan trọng tương ứng với hoạt động của hai bán cầu não. Tuy nhiên, nhiều thí nghiệm trên động vật khi phá hủy thể chai rất khó để thấy rõ sự thiếu hụt chức nãng của não bộ. Do đó, trong một thời gian dài, chức năng của thể chai chưa được biết rõ. Mặc dù vậy những thử nghiệm chính xác ngày nay đã chứng minh được chức năng vô cùng quan trọng của thể trai và mép trước.

Một trong những chức năng của thể chai và mép trước là làm cho những thông tin trên vỏ não ở bán cầu não này tương ứng với vùng vỏ não ấy ở bán cầu não bên đối diện. Các ví dụ quan trọng sau đây minh họa cho sự cộng tác này giữa hai bán cầu não:

1. Việc cắt thể chai đã vô hiệu hóa sự truyền thông tin từ vùng Wernicke của bán cầu ưu thế đến vùng vỏ não vận động của não bên đối diện. Do đó, chức năng trí tuệ của vùng Wernicke, nằm ở bán cầu não trái, mất kiểm soát đối với vùng vỏ não vận động ở bán cầu não phải dẫn đến khởi động chức năng vận động tự chủ của tay và chân trái, mặc dù vận động tiềm thức của tay và chân trái vẫn bình thường.

2. Việc cắt thể chai đã cản trở sự truyền thông tin về cảm giác bản thể và thị giác từ bán cầu phải sang vùng Wernicke ở bán cầu ưu thế bên trái. Do đó, thông tin về sinh dưỡng và thị giác từ nửa người trái thường xuyên không thể tới được vùng vỏ não chi phối nên vỏ não không thể đưa ra được quyết định.

3. Cuối cùng, người có thể chai bị cắt hoàn toàn sẽ có hai phần nhận thức riêng rẽ nhau. Ví dụ ở một cậu bé thiếu niên bị cắt thể chai, chỉ nửa phần não trái của cậu ta có thể hiểu được cả ngôn ngữ nói và viết vì não trái là bán cầu ưu thế. Ngược lại, não phải chỉ hiểu được ngôn ngữ viết nhưng không hiểu được ngôn ngữ nói. Hơn nữa não phải có thể tạo ra được một đáp ứng hoạt động vân động từ ngôn ngữ viết mà không cần tới não trái có vai trò nhận biết đáp ứng đó cần được thực hiện ra sao.

Kết quả khá khác nhau khi một đáp ứng cảm xúc được tạo ra ở não phải : Trong trường hợp này, một đáp ứng cảm xúc tiềm thức (subconsious) cũng xảy ra ở não trái. Đáp ứng này chắc chắn xảy ra vì vùng chi phối cảm xúc ở cả hai bán cầu não là thùy thái dương và các vùng lân cận, vẫn có thể liên hệ với nhau thông qua mép trước không bị cắt. Ví dụ, khi từ “kiss” được viết ra cho não phải nhìn, cậu trai này ngay lập tức nói “No way!” Đáp ứng này đòi hỏi chức năng của vùng Wernicke’s và các vùng vận ngôn ở bán cầu trái vì những vùng bên trái này là cần thiết trong việc nói từ “No way!” Mặc dù khi đýợc hỏi tại sao lại nói nhý thế, cậu ta không giải thích đýợc.

Như vậy, hai bán cầu đại não có khả năng độc lập trong ý thức, trí nhớ, giao tiếp và điều khiển chức năng vận động. Thể chai cần thiết cho hai bán cầu trong các hoạt động phối hợp ở mức tiềm thức nông (superficial subconscious level), và mép trước có vai trò bổ sung quan trọng trong thống nhất đáp ứng cảm xúc giữa hai bán cầu não.

Bài viết cùng chuyên mục

Điều khiển bài tiết hormone qua cơ chế feedback

Mặc dù nồng độ các hormone trong huyết tương luôn dao động theo từng mức độ kích thích khác nhau trong ngày, nhưng sự xuất hiện của tất cả hormone phải được kiểm soát chặt chẽ.

Hình thành acid acetoacetic trong gan và sự vận chuyển trong máu

Các acid acetoacetic, acid β-hydroxybutyric, và acetone khuếch tán tự do qua màng tế bào gan và được vận chuyển trong máu tới các mô ngoại vi, ở đây, chúng lại được khuếch tán vào trong tế bào.

Ép tim ngoài lồng ngực: khử rung thất

Một công nghệ ép tim không cần mở lồng ngực là ép theo nhịp trên thành ngực kèm theo thông khí nhân tao. Quá trình này, sau đó là khử rung bằng điện được gọi là hồi sức tim phổi.

Chức năng của hệ limbic: vị trí chủ chốt của vùng dưới đồi

Cấu trúc giải phẫu của hệ limbic, cho thấy phức hợp kết nối của các thành phần nội liên kết trong não. Nằm ở giữa những cấu trúc này là vùng dưới đồi, kích thước vô cùng nhỏ.

Giải phẫu sinh lý sợi cơ vân

Trong hầu hết các cơ vân, mỗi sợi kéo dài trên toàn bộ chiều dài của cơ. Ngoại trừ cho khoảng 2% của sợi, mỗi sợi thường được phân bố bởi chỉ một tận cùng thần kinh, nằm gần giữa của sợi.

Cử động định hình của mắt: cử động làm cho mắt tập trung

Vận động chú ý tự ý được điều hòa bởi một vùng vỏ não ở hai bên vùng tiền vận động của thùy trán. Mất chức năng hai bên hoặc tổn thương vùng này gây khó khăn cho việc mở khóa mắt.

Điều chỉnh nhanh huyết áp: vai trò của hệ thống thần kinh

Tính chất đặc biệt quan trọng của thần kinh điều chỉnh huyết áp là sự đáp ứng nhanh, bắt đầu ở giây đầu tiên và thường tăng huyết áp gấp 2 lần bình thường trong 5 đến 10 giây.

Sự lan truyền của áp lực đẩy máu ra các mạch máu ngoại biên

Sự duy trì trương lực mạch làm giảm lực đẩy vì mạch máu càng thích ứng tốt thì lượng máu càng lớn được đẩy về phía trước do sự gia tăng áp lực.

Xác định hướng đến của âm thanh: cơ chế thính giác trung ương

Sự định hướng không gian của các tín hiệu sau đó sẽ được truyền tới vỏ não thính giác, nơi mà hướng của âm thanh được xác định bởi vị trí các tế bào thần kinh bị kích thích tối đa.

Tác dụng của Insulin lên chuyển hóa chất béo

Insulin có nhiều tác dụng dẫn đến dự trữ chất béo tại mô mỡ. Đầu tiên, insulin tăng sử dụng glucose ở hầu hết các mô, điều này tự động làm giảm sử dụng chất béo, do đó, chức năng này như là dự trữ chất béo.

Cơ chế đặc biệt để kiểm soát lưu lượng máu cấp tính trong những mô cụ thể

Mặc dù các cơ chế chung cho kiểm soát dòng máu đã được thảo luận áp dụng cho hầu hết các mô trong cơ thể nhưng vẫn có những cơ chế riêng cho một số vùng đặc biệt.

Hệ thống chức năng của tế bào cơ thể người

Nếu tế bào muốn sống, phát triển và sinh sản, chúng phải kiếm thức ăn và những chất khác từ môi trường xung quanh. Hầu hết các chất đi qua màng tế bào bằng sự khuếch tán và vận chuyển tích cực.

Sinh lý sinh dục nữ giới

Cơ quan sinh dục nữ gồm: (1) buồng trứng, (2) vòi trứng, (3) tử cung, (4) âm đạo và (5) âm hộ. (6) Tuyến vú cũng được xem là một phần của cơ quan sinh dục nữ (hình).

Tần số âm thanh: định nghĩa nguyên lý vị trí thính giác

Phương pháp chủ yếu để hệ thần kinh phát hiện ra các tần số âm thanh khác nhau là xác định vị trí trên màng nền nơi mà nó được kích thích nhiều nhất, nó được gọi là nguyên lý vị trí trong xác định tần số âm thanh.

Giải phóng năng lượng từ Glucose theo con đường Pentose Phosphate

Con đường Pentose Phosphate có thể cung cấp năng lượng một cách độc lập với tất cả các enzym của chu trình citric acid và do đó là con đường thay thế cho chuyển hóa năng lượng khi có bất thường của enzym xảy ra trong tế bào.

Vai trò của O2 trong điều hòa hô hấp: điều hòa hô hấp bởi thụ thể ngoại vi

Oxygen không có ảnh hưởng trực tiếp tới trung tâm hô hấp của não trong việc điều hòa hô hấp. Thay vào đó, nó tác động gần như hoàn toàn lên các hóa thụ thể ở ngoại vi nằm trong động mạch cảnh và thân động mạch chủ.

PO2 phế nang: phụ thuộc vào các độ cao khác nhau

Khi lên độ cao rất lớn, áp suất CO2 trong phế nang giảm xuống dưới 40 mmHg (mặt nước biển). Con người khi thích nghi với độ cao có thể tăng thông khí lên tới 5 lần, tăng nhịp thở gây giảm PCO2 xuống dưới 7 mmHg.

Hệ thống tim mạch trong tập luyện thể thao

Lượng máu chảy trong cơ có thể tăng tối đa khoảng 25 lần trong bài tập vất vả nhất. Hầu hết một nửa mức tăng này là kết quả do giãn mạch gây ra bởi những tác động trực tiếp của việc tăng trao đổi chất trong cơ.

Đường cong áp suất động mạch chủ

Sau khi van động mạch chủ đóng, áp suất động mạch chủ giảm chậm suốt thì tâm trương do máu chứa trong các động mạch chun co giãn tiếp tục chảy qua các mạch ngoại vi để về tĩnh mạch.

Cấu trúc hóa học và sự chuyển hóa của các hormone

Cấu trúc hóa học và sự chuyển hóa của các hormone protein và polypeptide, các steroid, dẫn xuất của amino acid tyrosin.

Khả năng duy trì trương lực của mạch máu

Khả năng thay đổi trương lực của tĩnh mạch hệ thống thì gấp khoảng 24 lần so với động mạch tương ứng bởi vì do khả năng co giãn gấp 8 lần và thể tích gấp khoảng 3 lần.

Kiểm soát lưu lượng máu mô bằng các yếu tố thư giãn hoặc co thắt có nguồn gốc từ nội mô

Điều quan trọng nhất của các yếu tố giãn mạch nội mô là NO, một khí ưa mỡ được giải phóng từ tế bào nội mô đáp ứng với rất nhiều kích thích hóa học và vật lý.

Hệ nội tiết và sinh sản của nữ

Những hormone FSH và LH  hormone thùy trước tuyến yên, hormone kích thích nang trứng (FSH) và hormone hoàng thể hormone buồng trứng, estrogen và progesteron, được bài tiết với nồng độ liên tục thay đổi trong suốt các gai đoạn khác nhau của chu kỳ kinh nguyệt.

Sự xâm nhập tinh trùng vào trứng: các enzyme thể đỉnh và phản ứng thể đỉnh

Chỉ vài phút sau khi tinh trùng đầu tiên xâm nhập qua lớp màng sáng, các ion calci xâm nhập vào bên trong, tế bào phát động phản ứn g vỏ đổ các chất đặc biệt vào xoang quanh noãn.

Trao đổi khí ở phổi: vật lý của sự khuếch tán khí và phân áp khí

Áp suất được gây ra bởi tác động của phân tử chuyển động chống lại bề mặt, do đó, áp lực của khí tác động lên bề mặt của đường hô hấp và các phế nang cũng tỷ lệ thuận với lực tác động mà tất cả các phân tử khí ở bề mặt ngoài.