- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Tính chất hóa học của các hormone sinh dục
Tính chất hóa học của các hormone sinh dục
Cả estrogen và progesterone đều được vận chuyển trong máu nhờ albumin huyết tương và với các globulin gắn đặc hiệu. Sự liên kết giữa hai hormone này với protein huyết tương đủ lỏng lẻo để chúng nhanh chóng được hấp thu.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Estrogens
Bình thường ở phụ nữ không mang thai, một lượng có ý nghĩa estrogen được bài tiết duy nhất từ buồng trứng, mặc dù có một phần nhỏ được tiết ra từ vỏ thượng thận. Trong quá trình mang thai, một lượng rất lớn estrogen được tiết ra từ bánh rau.
Có 3 loại estrogen trong huyết tương người phụ nữ: β-estradiol, estron, và estriol, công thức của chúng được trình bày ở hình. Loại estrogen chính được tiết từ buồng trứng là β-estradiol. Một lượng nhỏ estron cũng được tiết, nhưng đa số chúng được tiết ra ở mô ngoại vi từ androgen được tiết từ tuyến thượng thận và các tế bào thuộc lớp áo nang. Estriol là một hormone yếu; là sản phẩm của quá trình oxy hóa estradiol hoặc estron, được chuyển hóa chủ yếu ở gan. β-estradiol mạnh gấp 12 lần estron và gấp 80 lần estriol. So sánh về độ mạnh tương đối, ta có thể thấy β-estradiol mạnh gấp nhiều lần hai hormone kia kết hợp lại. Do đó, βestradiol được cho là estrogen chính, mặc dù ảnh hưởng của estron cũng không thể phủ định.
Hình. Sự phân giải các hormone chính ở nữ. Cấu trúc hóa học của các chất tiền hormone, bao gồm cả progesterone.
Progestins
Cho đến nay hormone quan trọng nhất của các hormone progestin là progesteron. Tuy nhiên, cũng có lượng nhỏ một loại hormone progestin- 17-αhydroxyprogesteron, được tiết cùng với progesterone và cơ bản có tác dụng tương tự như progesterone. Từ đó, trên thực hành, progesterone được coi là hormone quan trọng nhất của progestin.
Bình thưởng ở phụ nữ không mang thai, progesterone chỉ được tiết ra với một lượng có ý nghĩa ở nửa sau của chu kì buồng trứng, khi đó progesterone được tiết bởi hoàng thể.
Như chúng ta sẽ thấy ở Chương 83, một lượng lớn progesterone cũng được bài tiết từ bánh rau trong quá trình mang thai, đặc biệt từ tháng thứ tư trở đi của thai kì.
Sự tổng hợp của estrogen và progesteron
Công thức hóa học của estrogen và progesterone ở hình cho thấy chúng đều là các steroid. Chúng được tổng hợp ở buồng trứng chủ yếu từ cholesterol nguồn gốc từ máu và một lượng nhỏ từ các acetyl coenzyme A, tập hợp các phân tử này có thể tập hợp lại để tạo nên sự phù hợp của nhân steroid.
Trong quá trình tổng hợp, phần lớn progesterone và hormone nam testosterone được tổng hợp trước; sau đó, trong giai đoạn nang trứng của chu kì buồng trứng, trước khi hai hormone này rời khỏi buồng trứng, hầu hết testosterone và một lượng lớn progesterone được các tế bào hạt chuyển thành estrogen. Bởi vì lớp áo nang bị mất enzyme aromatase ở các tế bào hạt nên không thể chuyển androgen thành estrogen. Tuy nhiên, androgen được khuếch tán qua khỏi lớp áo nang đến adjacent các tế bào hạt (adjacent granulosa cells), tại đây chúng được chuyển thành estrogen nhờ enzyme aromatase, hoạt động này được kích thích bởi FSH.
Hình. Sự tương tác của các tế bào vỏ nang và các tế bào hạt để bài tiết estrogen. Các tế bào vỏ nang, dưới sự điều chỉnh của (LH),bài tiết androgens ngấm vào các tế bào hạt. Tại nang trưởng thành, hormone kích thích nang trứng(FSH) hoạt động tại các tế bào hạt làm kich hoạt aromatase, chuyển androgen thành estrogen. AC, enzyme xúc tác chuyển ATP thành cAMP; ATP, adenosine triphosphate; cAMP, adenosine monophosphate vòng; LDL, lipoproteins mật độ phân tử thấp.
Trong quá trình tổng hợp, phần lớn progesterone và hormone nam testosterone được tổng hợp trước; sau đó, trong giai đoạn nang trứng của chu kì buồng trứng, trước khi hai hormone này rời khỏi buồng trứng, hầu hết testosterone và một lượng lớn progesterone được các tế bào hạt chuyển thành estrogen. Trong giai đoạn hoàng thể, progesterone được tiết ra quá nhiều so với phần được chuyển đổi, làm cho lượng progesterone trong máu tăng cao. Ngoài ra, ở nữ lượng testosteron được bài tiết từ buồng trứng vào huyết tương bằng khoảng 1/15 lần lượng testosterone được tiết ra từ tinh hoàn ở nam giới.
Estrogen và progesterone được vận chuyển trong máu đến protein huyết tương
Cả estrogen và progesterone đều được vận chuyển trong máu nhờ albumin huyết tương và với các globulin gắn đặc hiệu. Sự liên kết giữa hai hormone này với protein huyết tương đủ lỏng lẻo để chúng nhanh chóng được hấp thu vào các mô trong thời gian khoảng 30 phút hoặc hơn.
Chức năng phân hủy estrogen của gan
Gan phân hủy estrogen thành glucoroni và sulphat, và khoảng 1/5 sản phẩm của sự phân hủy này được đào thải qua dịch mật; phần còn lại được thải qua nước tiểu. Gan còn chuyển hóa hai loại estrogen mạnh là estradiol và estron thành loại estrogen yếuestriol. Do đó, thực tế khả năng giáng hóa của gan làm tăng hoạt hóa estrogen trên cơ thể, đôi khi co thể gây ra cường estrogen.
Số phận của Progesterone
Khoảng vài phút sau khi được bài tiết, hầu hết progesterone bị phân hủy thành các nhân steroid và mất hết chức năng. Cũng như estrogen, gan là nơi thực hiện quá trình giáng hóa progesterone.
Sản phẩm chính của sự giáng hóa progesterone là pregnandiol. Khoảng 10% progesterone được bài tiết qua nước tiểu dưới dạng prenandiol. Do đó, ta có thể ước lượng nồng độ progesterone của cơ thể từ sự bài tiết này.
Bài viết cùng chuyên mục
Calcitonin và canxi huyết
Sự kích thích chính tiết calcitonin là việc tăng nồng độ ion canxi dịch ngoai bào. Ngược lại, sự tiết PTH được kích thích bởi nồng độ canxi giảm.
Huyết áp: đơn vị chuẩn và phép đo huyết áp
Huyết áp máu luôn luôn có đơn vị đo là milimet thuỷ ngân bởi vì các tài liệu tham khảo chuẩn để đo áp lực kể từ khi phát minh áp kế thuỷ ngân của Poiseuille.
Sự bảo vệ cơ thể và tái sản xuất
Hệ miễn dịch có các vai trò phân biệt tế bào của cơ thể với tế bào và các chất lạ thường; phá hủy chúng nhờ đại thực bào hoặc tạo ra các lympho bào và prôtein đặc hiệu hoặc làm vô hiệu hoá các kháng nguyên.
Đo lưu lượng máu não và tác động của hoạt động não bộ trên lưu lượng máu não
Chứng minh tác động của hoạt động thần kinh tại chỗ trên lưu lượng máu não bằng cách chỉ ra sự gia tăng đặc hiệu lưu lượng máu vùng chẩm ghi lại trên não một con mèo khi chiếu ánh sáng mạnh vào mắt nó trong một phút rưỡi.
Insulin và ảnh hưởng lên chuyển hóa
Insulin được biết đến rằng có liên hệ với đường huyết, và đúng như vậy, insulin có ảnh hưởng lớn đến quá trình chuyển hóa carbohydrate.
Sự phát triển của hệ cơ quan thai nhi
Sự phát triển các tế bào trên mỗi cơ quan thường chưa được hoàn thiện và cần 5 tháng mang thai còn lại để phát triển hoàn toàn. Ngay cả lúc sinh, những cấu trúc nhất định, đặc biệt là hệ thần kinh, thận và gan, thiếu sự phát triển hoàn toàn, như được mô tả sau.
Cung lượng tim: đánh giá theo nguyên lý thay đổi nồng độ ô xy
Đo nồng độ oxy dòng máu tĩnh mạch được đo qua catheter đưa từ tĩnh mạch cánh tay, qua tĩnh mạch dưới đòn và vào tâm nhĩ phải,cuối cùng là tâm thất phải và động mạch phổi.
Thùy trước và thùy sau tuyến yên
Hai thùy tuyến yên có nguồn gốc khác nhau, thùy trước từ túi Rathke, là một vùng lõm vào của lớp thượng bì hầu họng, và thùy sau từ một mô thần kinh phát triển ra từ vùng dưới đồi.
Adenosine Triphosphate: chất mang năng lượng trong chuyển hoá
Carbohydrat, chất béo, and protein đều được tế bảo sử dụng để sản xuất ra một lượng lớn adenosine triphosphate, là nguồn năng lượng chính cho mọi hoạt động của tế bào. Vì vậy, ATP được gọi là “chất mang năng lượng” trong chuyển hoá tế bào.
Tế bào: đơn vị cấu trúc và chức năng của cơ thể
Tế bào chỉ có thể sống, phát triển và thực hiện các chức năng của nó trong môi trường tập trung của oxygen, glucose, các ion, amino acid, chất béo và các chất cần thiết khác trong một môi trường.
Kênh cổng điện thế natri và kali
Khi các kênh kali mở, chúng vẫn mở cho toàn bộ thời gian điện thế màng hoạt động và không đóng lại cho đến khi điện thế màng được giảm trở lại một giá trị âm.
Điện tâm đồ: phân tích vector ở điện tâm đồ bình thường
Vì mặt ngoài của đỉnh tâm thất khử cực trước mặt trong, nên trong quá trình tái phân cực, tất cả các vector của tâm thất dương và hướng về phía đỉnh tim.
Cung lượng tim: là tổng máu tuần hoàn qua mô phụ thuộc vào tuần hoàn ngoại vi
Tổng lưu lượng máu của tuần hoàn ngoại vi chính là tuần hoàn tĩnh mạch, và tim hoạt động một cách tự động để bơm máu quay trở lại tuần hoàn chung của cơ thể.
Một số tác dụng của cortisol ngoài chuyển hóa và chống viêm và stress
Cortisol làm giảm số lượng bạch cầu ái toan và tế bào lympho trong máu; tác dụng này bắt đầu trong vòng vài phút sau khi tiêm cortisol và rõ ràng trong vòng vài giờ.
Kích thích và dẫn truyền xung động của tim
Nút xoang (còn gọi là nhĩ xoang hay nút SA) phát nhịp trong hệ thống tạo xung nhịp bình thường, theo đường dẫn xung từ nút xoang tới nút nhĩ thất (AV).
Hoạt động chuyển hóa tế bào của Aldosterol
Aldosterol không có tác dụng vận chuyển natri ngay lập tức; đúng hơn tác dụng này phải chờ hình thành liên tục những chất đặc biệt cần thiết vận chuyển natri.
Chức năng của vùng hải mã: vùng kéo dài của vỏ não
Hải mã và các cấu trúc nằm cạnh thùy thái dương và thùy đỉnh, được gọi là khối hải mã liên kết chủ yếu gián tiếp với nhiều phần của vỏ não cũng như các cấu trúc cơ bản của hệ limbic – thể hạnh nhân, vùng dưới đồi, vách trong suốt và thể vú.
Chức năng trao đổi và vận chuyển khí hô hấp
Sau khi phế nang đã được thông khí, bước tiếp theo của quá trình hô hấp là sự khuyếch tán O2 từ phế nang vào mao mạch phổi và CO2 theo chiều ngược lại. Sau khi trao đổi, máu tĩnh mạch trở thành máu động mạch có phân áp O2 cao, CO2 thấp so với tổ chức.
Sự phát triển của nang trứng giai đoạn nang của chu kỳ buồng trứng
Giai đoạn đầu tiên của sự phát triển nang trứng là sự phát triển ở mức trung bình của nang, đường kính tăng gấp đôi hoặc gấp ba. Sau đó theo sự lớn lên thêm vào của lớp tế bào hạt ở một số nang; những nang này được gọi là nang trứng nguyên phát.
Nút xoang (xoang nhĩ): hệ thống kích thích và dẫn truyền của tim
Nút xoang nhỏ, dẹt, hình dải elip chuyên biệt của cơ tim rộng khoảng 3mm, dài 15mm và dày 1mm. Nó nằm ở sau trên vách tâm nhĩ phải, ngay bên dưới và hơi gần bên chỗ mở của tĩnh mạch chủ trên.
Tiêu hóa Carbohydrate sau khi ăn
Có 3 nguồn carbohydrate quan trọng là sucrose, disaccharide thường được biết như là đường mía, lactose, chúng là một disaccharide được tìm thấy trong sữa; và tinh bột.
Chất kháng giáp ức chế bài tiết của tuyến giáp
Thuốc kháng giáp được biết đến nhất là thyocyanate, propyl-thiouracil, và nồng độ cao iod vô cơ, những thuốc này ngăn chặn bài tiết hormon giáp theo những cơ chế khác nhau.
Đặc điểm của sự co bóp cơ toàn bộ
Cơ co bóp được nói là đẳng trường khi cơ không bị rút ngắn trong suốt sự co bóp và là đẳng trương khi nó bị rút ngắn nhưng sức căng trên cơ vẫn không đổi trong suốt sự co bóp.
Tiểu thể Pacinian: điện thế nhận cảm và ví dụ về chức năng của receptor
Tiểu thể Pacinian có một sợi thần kinh trung tâm kéo dài suốt lõi tiểu thể. Bao quanh sợi thần kinh trung tâm này là các lớp vỏ bọc khác nhau xếp đồng tâm, và do vậy, sự đè ép ở bất kì vị trí nào bên ngoài tiểu thể sẽ kéo giãn.
Thị lực: chức năng của thị giác
Thị lực người thường có thể phân biệt được 2 điểm các nhau khoảng 25 giây cung. Nghĩa là khi các tia sáng đi từ hai nguồn riêng đi đến mắt tạo một góc giữa chúng tối thiểu là 25 giây, chúng sẽ được xem là hai điểm riêng biệt.