Tín hiệu nội bào sau khi receptor hormone được kích hoạt

2022-09-29 09:46 AM

Nhiều loại mô khác nhau có cùng loại receptor nội bào giống nhau, tuy nhiên gen được kích thích bởi các receptor ở một số mô lại khác nhau.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Gần như không có ngoại lệ, một hormone tác dụng lên mô đích đầu tiên phải tạo ra phức hợp hormone-receptor. Dạng phức hợp này có chức năng khác với receptor, và sự kích hoạt receptor bắt đầu quá trình ảnh hưởng của hormone tại mô đích.

Receptor gắn trên kênh ion

Hầu hết tất cả các chất dẫn truyền thần kinh, như acetylcholine và nor-epinephrin, gắn vào các receptor màng sau synap. Sự liên kết này hầu như luôn luôn làm thay đổi cấu trúc của các receptor, thường mở hoặc đóng các kênh đối với một hoặc nhiều loại ion. Một số kênh ion phụ thuộc receptor mở (hoặc đóng) kênh với ion Natri, một số khác với ion Kali, một số khác thì với ion calci, và nhiều lạo khác nữa. Sự di chuyển khác nhau của các loại ion khác nhau vào và ra khỏi tế bào thông qua các kênh ion tạo ra những hiệu ứng kế tiếp trên tế bào sau synap. Mặc dù một vài hormone có thể thực hiện chức năng thông qua hoạt hóa receptor của các kênh ion, nhưng hầu hết các hormone mở hoặc đóng kênh ion gián tiếp thông qua việc gắn với receptor liên kết protein G hoặc các receptor liên kết enzyme.

Receptor liên kết protein G

Nhiều receptor sau khi được kích hoạt gián tiếp điều khiển hoạt động của các protein đích (như các enzyme hoặc các kênh ion) bằng cách gắn với nhóm các protein màng tế bào được gọi là heterotrimeric guanosine triphosphate (GTP)-gắn protein G. Đã phát hiên ra hơn 1000 receptor gắn protein G, tất cả đều có 7 phân đoạn xuyên màng lượng ra lượn vào xuyên qua màng tế bào. Một số phần của receptor gắn vào tế bào chất (đặc biệt là các đuôi tế bào chất của receptor) được liên kết với các protein G (protein G bao gồm 3 tiểu đơn vị: α, β và γ). Khi hormone gắn vào phần bên ngoài màng của receptor, sự thay đổi cấu hình của receptor làm kích hoạt protein G và phát ra các tín hiệu nội nào gây ra: hoặc (1) mở hoặc đóng các kênh ion màng, hoặc (2) thay đổi hoạt động của một enzyme trong tế bào chất, hoặc (3) kích hoạt phiên mã gen.

Cơ chế hoạt hóa thụ thể liên kết với protein G

Hình. Cơ chế hoạt hóa thụ thể liên kết với protein G. Khi hormone kích hoạt thụ thể, các α, β và γ không hoạt động. Phức hợp protein G liên kết với thụ thể và được kích hoạt, với sự trao đổi guanosine triphosphate (GTP) cho guanosine diphosphate (GDP). Quá trình này làm cho tiểu đơn vị α (mà GTP được liên kết) phân ly khỏi tiểu đơn vị β và γ của protein G và tương tác với các protein đích gắn kết màng (enzym) bắt đầu các tín hiệu nội bào.

Protein tam phân G được đặt tên dựa trên khả năng gắn với guanosine nucleotides. Trong trạng thái bất hoạt của protein G, các tiểu đơn vị α, β và γ tạo thành một phức hợp gắn với guanosine diphosphate (GDP) tại vị trí tiểu đơn vị α. Khi receptor được kích hoạt, nó sẽ thay đổi hình dạng và làm cho phức hợp GDP-protein G liên kết với phần nằm trong tế bào chất của receptor và chuyển GDP thành GTP. Sự thay thế GDP thành GTP làm cho tiểu đơn vị α tách khỏi phức hợp tam phân và chuyển sang liên kết với một protein thông tin nội bào khác; những protein này, khi gắn với tiểu đơn vị α, sẽ làm thay đổi hoạt động của các kênh ion hoặc các enzyme nội bào như adenyl cyclase hoặc phospholipase C, làm biến đổi chức năng của tế bào.

Tín hiệu kết thúc khi hormone bị phá hủy và tiểu đơn vị α quay lại gắn với tiểu đơn vị β và γ để trở về dạng bất hoạt - chất điều tiết protein G.

Một số hormone được gắn với các protein G ức chế (kí hiệu là protein Gi), trong khi các hormone khác gắn với protein G kích thích (kí hiệu protein Gs). Do đó, tùy thuộc vào sự gắn của receptor hormone với protein G ức chê hay kích thích, một hormone có thể hoặc làm tăng hoặc giảm hoạt động của các enzyme nội bào. Phức hợp hệ thống protein G trên màng tế cung cấp một mảng rộng lớn của các tế bào tiềm năng đáp ứng lại các hormone khác nhau tại các mô khác nhau của cơ thể.

Receptor liên kết enzyme

Một số receptor, khi hoạt động mang chức năng giống như các enzyme hoặc liên kết chặt chẽ với các enzyme mà chúng kích hoạt. Những receptor liên kết enzyme này là những protein xuyên màng một lần, khác với các receptor xuyên màng gắn với protein G xuyên màng 7 lần. Receptor liên kết enzyme có những vị trí gắn hormone ở phía ngoài màng tế bào và tạo ra xúc tác hoặc vị trí gắn hormone ở bên trong. Khi hormone gắn vào phần ngoài màng của receptor, một enzyme trong màng tế bào ngay lập tức được kích hoạt (hoặc đôi khi bị bất hoạt). Mặc dù nhiều receptor liên kết enzyme có hoạt động của enzyme nội tại, một số khác phải cần đến các enzyme gắn chặt chẽ vào receptor mới có thể tạo ra sự thay đổi chức năng của tế bào.

Các hormone sử dụng tín hiệu Tyrosine Kinase

Bảng Các hormone sử dụng tín hiệu Tyrosine Kinase của Receptor

Một số yếu tố tăng trưởng (có bản chất peptid), các cytokine và các hormone sử dụng receptor liên kết enzyme tyrosin kinase để tạo ra tín hiệu tế bào. Một ví dụ của receptor liên kết enzyme là receptor leptin. Leptin là một hormone được tiết ra từ các tế bào mỡ và có một số ảnh hưởng đến sinh lý, nhưng nó đặc biệt quan trọng trong việc điều khiển cảm giác thèm ăn và sự cân bằng năng lượng. Receptor leptin là một thành viên của nhóm rất nhiều các receptor cytokine, nhóm các receptor này không có hoạt động enzyme nội tại nhưng chúng có thể truyền tín hiệu đến các enzyme liên quan. Đối với receptor leptin, một trong những đường dẫn tín hiệu xảy ra thông qua tyrosin kinase của nhóm janus kinase(JAK), JAK2. Receptor leptin tồn tại dưới dạng dimer (2 tiểu phần), và sự gắn của leptin với phần bên ngoài màng tế bào của receptor làm thay đổi cấu trúc của nó, khởi động quá trình phosphoryl hóa và hoạt hóa các phân tử JAK2 liên quan trong nội bào. Sự kích hoạt các phân tử JAK2 sau đó gây phosphoryl hóa các tyrosin còn lại ở receptor leptin - hình thành phức hợp JAK2 làm trung gian tín hiệu nội bào. Những tín hiệu nội bào này bao gồm sự phosphoryl hóa của các protein chuyển đổi tín hiệu và kiểm soát phiên mã (STAT), kích hoạt quá trình phosphoryl hóa tại các gen leptin đích để bắt đầu quá trình tổng hợp protein. Sự phosphoryl hóa JAK2 còn dẫn đến hoạt hoá một số con đường enzyme nội bào khác như các kinase hoạt hóa phân bào (MAPK) hay phosphatidylinositol 3-kinase (PI3K). Một số ảnh hưởng của leptin diễn ra nhanh chóng là hậu quả của sự kích hoạt những enzyme nội bào này, ngược lại một số tác dụng khác diễn ra chậm hơn và cần phải có sự tổng hợp của những protein khác.

Thụ thể liên kết với enzym

Hình. Thụ thể liên kết với enzym - thụ thể leptin. Thụ thể tồn tại dưới dạng homodimer (hai phần giống nhau), và leptin liên kết với phần ngoại bào của thụ thể, gây ra quá trình phosphoryl hóa (P) và kích hoạt janus kinase 2 liên kết nội bào (JAK2). Cơ chế này gây ra quá trình phosphoryl hóa chất dẫn truyền tín hiệu và chất hoạt hóa protein phiên mã (STAT), sau đó kích hoạt quá trình phiên mã của gen đích và tổng hợp protein. Quá trình phosphoryl hóa JAK2 cũng kích hoạt một số hệ thống enzym khác làm trung gian cho một số tác dụng nhanh hơn của leptin. Y, các vị trí phosphoryl hóa tyrosine cụ thể.

Một ví dụ khác, một cơ chế được sử dụng rộng rãi để điều khiển chức năng tế bào thông qua hormone, là cho hormone gắn với một receptor xuyên màng đặc biệt, receptor này sau đó sẽ trở thành enzyme hoạt hóa adenylyl cyclase nhô ra từ trong tế bào. Enzym này xúc tác sự hình thành cAMP, chất gây rất nhiều ảnh hưởng trong môi trường nội bào để kiểm soát các hoạt động của tế bào (sẽ được nói đến sau). cAMP được gọi là chất truyền tin thứ hai bởi vì bản thân đây không phải là một hormone trực tiếp gây ra sự thay đổi ở tế bào; thay vào đó, cAMP có chức năng như một chất truyền tin thứ hai để tạo ra những ảnh hưởng ở tế bào.

Với một vài hormone dạng peptid, như hormone lợi niệu tâm nhĩ (ANP), GMP vòng (cGMP), những chất chỉ khác cAMP một chút, cũng là những chất truyền tin thứ hai.

Những receptor hormone nội bào và sự hoạt hóa các gen

Có một vài hormone, bao gồm các hormone steroid tuyến thượng thận và tuyến sinh dục, hormone tuyến giáp, hormone vitamin A, vitamin D, gắn với các receptor protein bên trong tế bào nhiều hơn là gắn vào màng tế bào. Bời vì những hormone này tan trong dầu, chúng dễ dàng đi qua màng tế bào và gắn với các receptor trong tế bào chất hoặc nhân. Phức hợp hormone-receptor hoạt hóa sau đó gắn với một vùng đặc biệt (gọi là promoter) trên DNA và được gọi là giai đoạn đápứng hormone (hormone response element), và theo cách này thì hoặc sẽ kích hoạt hoặc ức chế phiên mã của các gen đặc hiệu và các ARN thông tin (mRNA, HÌNH 75-6). Do đó, vài phút, vài giờ hoặc thậm chí vài ngày sau khi hormone đi vào trong tế bào, một dạng protein mới xuất hiện trong tế bào và trở thành chất điều khiển các chức năng mới hoặc các chức năng khác của tế bào.

Cơ chế tương tác của hormone kỵ nước

Hình. Cơ chế tương tác của hormone kỵ nước, chẳng hạn như steroid, với các thụ thể nội bào trong tế bào đích. Sau khi hormone liên kết với thụ thể trong tế bào chất hoặc trong nhân, phức hợp hormone-thụ thể sẽ liên kết với yếu tố đáp ứng hormone (promoter) trên DNA. Hành động này kích hoạt hoặc ức chế phiên mã gen, hình thành RNA thông tin (mRNA) và tổng hợp protein.

Nhiều loại mô khác nhau có cùng loại receptor nội bào giống nhau, tuy nhiên gen được kích thích bởi các receptor ở một số mô lại khác nhau. Một receptor nội bào có thể kích hoạt một gen chỉ khi có sự liên kết phù hợp giữa receptor với protein điều hòa gen, và nhiều loại pritein này là đặc hiệu cho từng loại mô cơ thể. Do đó, đáp ứng của các loại mô khác nhau với hormone được tìm hiểu không chỉ về tính chất đặc hiệu của các receptor mà còn cả biểu hiện của gen được receptor điều khiển.

Bài viết cùng chuyên mục

Sinh lý nhóm máu

Trên màng hồng cầu người, người ta đã tìm ra khoảng 30 kháng nguyên thường gặp và hàng trăm kháng nguyên hiếm gặp khác. Hầu hết những kháng nguyên là yếu, chỉ được dùng để nghiên cứu di truyền gen và quan hệ huyết thống.

Chất dẫn truyền thần kinh: phân tử nhỏ tốc độ và tái chế

Trong hầu hết các trường hợp, các chất dẫn truyền thần kinh có phân tử nhỏ được tổng hợp tại bào tương của trạm trước synap và được vận chuyển tích cực vào túi chứa chất dẫn truyền.

Hệ thống Renin Angiotensin: đáp ứng lại bằng tốc độ và cường độ co mạch

Renin là một enzyme protein phát hành bởi thận khi huyết áp động mạch giảm quá thấp. Đổi lại, nó làm tăng huyết áp động mạch theo nhiều cách, do đó giúp điều chỉnh lại sự giảm huyết áp.

Sự hấp thu thủy dịch của mắt

Sau khi thủy dịch được hình thành từ các mỏm mi, nó sẽ lưu thông, thông qua lỗ đồng tử đi vào tiền phòng của mắt sau đó chảy vào góc giữa giác mạc và mống mắt.

Chức năng của hệ limbic: vị trí chủ chốt của vùng dưới đồi

Cấu trúc giải phẫu của hệ limbic, cho thấy phức hợp kết nối của các thành phần nội liên kết trong não. Nằm ở giữa những cấu trúc này là vùng dưới đồi, kích thước vô cùng nhỏ.

Sự xâm nhập tinh trùng vào trứng: các enzyme thể đỉnh và phản ứng thể đỉnh

Chỉ vài phút sau khi tinh trùng đầu tiên xâm nhập qua lớp màng sáng, các ion calci xâm nhập vào bên trong, tế bào phát động phản ứn g vỏ đổ các chất đặc biệt vào xoang quanh noãn.

Chu chuyển của tim

Tâm nhĩ hoạt động như một bơm khởi đầu cho tâm thất, và tâm thất lần lượt cung cấp nguồn năng lượng chính cho sự vận chuyển máu qua hệ thống mạch trong cơ thể.

Glycogen được dự trữ tại gan và cơ trong cơ thể

Tất cả các tế bào đều có khả năng dự trữ glycogen, một số tế bào có khả năng dự trữ số lượng lớn hơn, tế bào gan dự trữ 5 đến 8% khối lượng dưới dạng glycogen, và tế bào cơ, có thể dự trữ 1 đến 3% glycogen.

Tiêu hóa Carbohydrate sau khi ăn

Có 3 nguồn carbohydrate quan trọng là sucrose, disaccharide thường được biết như là đường mía, lactose, chúng là một disaccharide được tìm thấy trong sữa; và tinh bột.

Hàng rào chắn lipid của màng tế bào và các protein mang trên màng tế bào

Các phân tử protein trong màng tế bào các toàn bộ các tính chất của một chất vận chuyển. Cấu trúc phân tử của chúng làm gián đoạn tính liên tục của màng bào tương, tạo sự thay đổi cấu trúc vượt qua màng tế bào.

Khúc xạ ánh sáng: nguyên lý quang học nhãn khoa

Chỉ số khúc xạ của không khí là 1.00. Do đó, nếu ánh sáng đi trong một loại thủy tinh với tốc độ là 200,000km/s thì chỉ số khúc xạ của loại thủy tinh này 300,000 chia cho 200,000, hay 1.50.

Cấu trúc hóa học và sự chuyển hóa của các hormone

Cấu trúc hóa học và sự chuyển hóa của các hormone protein và polypeptide, các steroid, dẫn xuất của amino acid tyrosin.

Block nhĩ thất không hoàn toàn: chặn đường truyền tín hiệu điện tim

Một điện tâm đồ có P-R kéo dài khoảng 0.3s thay vì bình thường khoảng 0,2s hoặc ít hơn. Do đó, block độ 1 được định nghĩa là sự chậm dẫn truyền từ nhĩ đến thất chứ không phải mất hẳn dẫn truyền.

Vùng dưới đồi: cơ quan đầu não của hệ limbic

Vùng dưới đồi, mặc dù kích thước nhỏ, chỉ vài cm (nặng khoảng 4 gram),  nhưng có 2 đường truyền tới tất cả cấu trúc của hệ limbic. Vùng dưới đồi và cấu trúc phụ liên quan gửi xung động đi ra theo 3 đường.

Dẫn truyền âm thanh từ màng nhĩ đến ốc tai: phối hợp trở kháng bởi xương con

Các xương con của tai giữa được treo bởi các dây chằng trong đó xương búa và xương đe kết hợp để hoạt động như một đòn bẩy, điểm tựa của nó ở ranh giới của màng nhĩ.

Sự kích thích bài tiết acid dạ dày

Khi thức ăn có chứa protein tới vùng tận cùng hang vị, một vài protein từ thức ăn tác động kích thích tế bào tiết gastrin của tuyến môn vị gây nên sự giải phóng Gastrin vào máu để sau đó được vận chuyển đến các tế bào ECL ở dạ dày.

Thuốc kích thích hoặc ức chế neuron hậu hạch giao cảm và phó giao cảm

Các thuốc ngăn sự dẫn truyền từ các neuron tiền hạch tới các neuron hậu hạch bao gồm tetraethyl ammonium ion, hexamethonium ion, và pentolinium. Những thuốc này ngăn chặn sự kích thích của acetycholin.

Giải phẫu sinh lý của bài tiết dịch mật

Thành phần của dịch mật ban đầu khi được bài tiết bởi gan và sau khi được cô đặc trong túi mật. Phần lớn chất được bài tiết bên trong dịch mật là muối mật, chiếm khoảng một nửa trong tổng số các chất được hòa tan trong dịch mật.

Hình thành bạch huyết của cơ thể

Hệ thống bạch huyết cũng là một trong những con đường chính cho sự hấp thụ các chất dinh dưỡng qua đường tiêu hóa, đặc biệt là cho sự hấp thụ của hầu như tất cả các chất béo trong thực phẩm.

Ô xy của tế bào: sự chuyển hóa và sử dụng

Càng tăng nồng độ của ADP làm tăng chuyển hóa và sử dụng O2 (vì nó kết hợp với các chất dinh dưỡng tế bào khác nhau) thì càng tăng giải phóng năng lượng nhờ chuyển đổi ADP thành ATP.

Sinh lý cầm máu

Thành mạch bị thương tổn càng nhiều thì co mạch càng mạnh, sự co mạch tại chỗ có thể kéo dài nhiều phút đến vài giờ.

Chất kháng giáp ức chế bài tiết của tuyến giáp

Thuốc kháng giáp được biết đến nhất là thyocyanate, propyl-thiouracil, và nồng độ cao iod vô cơ, những thuốc này ngăn chặn bài tiết hormon giáp theo những cơ chế khác nhau.

Acid béo với alpha Glycerophosphate để tạo thành Triglycerides

Quá trình tổng hợp triglycerides, chỉ có khoảng 15% năng lượng ban đầu trong đường bị mất đi dưới dạng tạo nhiệt, còn lại 85% được chuyển sang dạng dự trữ triglycerides.

Chức năng thông khí hô hấp

Đường dẫn khí là một hệ thống ống, từ ngoài vào trong gồm có: mũi, họng, thanh quản, khí quản, phế quản, phế quản đi vào hai lá phổi.

Chức năng cảm giác thân thể: một số khía cạnh đặc biệt

Bên cạnh các tín hiệu cảm giác thân thể dẫn truyền từ ngoại vi về não, các tín hiệu corticofugal được dẫn truyền theo hướng ngược lại từ vỏ não đến trạm chuyển tiếp cảm giác thấp hơn của đồi thị, hành não và tủy sống.