Thùy trước và thùy sau tuyến yên

2022-09-30 09:13 AM

Hai thùy tuyến yên có nguồn gốc khác nhau, thùy trước từ túi Rathke, là một vùng lõm vào của lớp thượng bì hầu họng, và thùy sau từ một mô thần kinh phát triển ra từ vùng dưới đồi.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Tuyến yên là một tuyến nhỏ có đường kính khoảng 1cm và nặng 0,5-1 gam - nằm trong hố yên, một hốc xương nằm ở nền sọ, và được nối với vùng dưới đồi qua cuống yên. Về sinh lý học, tuyến yên có hai phần riêng biệt: thùy trước tuyến yên, hay còn gọi là thùy tiết, thùy sau tuyến yên, hay còn gọi là thùy thần kinh. Nằm giữa hai thùy là một vùng nhỏ, tương đối vô mạch được gọi là thùy giữa, ít phát triển trên người nhưng có kích thước lớn và mang nhiều chức năng ở một số động vật.

Tuyến yên

Hình. Tuyến yên.

Theo phôi học, hai thùy tuyến yên có nguồn gốc khác nhau - thùy trước từ túi Rathke, là một vùng lõm vào của lớp thượng bì hầu họng, và thùy sau từ một mô thần kinh phát triển ra từ vùng dưới đồi. Nguồn gốc thùy trước tuyến yên từ biểu mô hầu họng giải thích cho bản chất biểu mô của những tế bào vùng này, và nguồn gốc thùy sau từ mô thần kinh giải thích vì sao có sự hiện diện một lượng rất lớn tế bào thần kinh đệm tại thùy này.

Có 6 hormone peptid quan trọng và vài hormone khác ít quan trọng hơn được tiết ra từ thùy trước tuyến yên, và có 2 hormone peptid quan trọng được tiết ra từ thùy sau. Những hormone thùy trước đảm nhiệm những vai trò quan trọng trong quá trình chuyển hóa toàn cơ thể.

Chức năng chuyển hóa của các hormone thùy trước tuyến yên

Hình. Chức năng chuyển hóa của các hormone thùy trước tuyến yên. ACH, hormon corticosteroid tuyến thượng thận.

Hormone tăng trưởng (GH) ảnh hưởng đến sự phát triển toàn bộ cơ thể qua điều khiển sự tổng hợp protein, và phân chia tế bào.

ACTH (corticotropin) điều khiển sự bài tiết một số hormone vỏ thượng thận, gây ảnh hưởng đến chuyển hóa glucose, protein, và mỡ.

Hormone kích thích tuyến giáp (TSH) (thyrotropin) điều khiển mức độ bài tiết của T3 và T4 ở tuyến giáp, và những hormone này ảnh hưởng đến hầu hết tốc độ các phản ứng hóa học trong cơ thể.

Prolactin điều khiển tuyến vú phát triển và bài tiết sữa.

Hai hormone điều hòa tuyến sinh dục, hormone kích thích nang trứng (FSH) và hormone hoàng thể (LH), điều khiển sự phát triển của buồng trứng và tinh hoàn, cũng như các hoạt động nội tiết và sinh sản.

Hai hormone thùy sau tuyến yên lại thực hiện các chức năng khác:

Hormone chống bài niệu (vasopressin) điều khiển mức độ bài tiết nước vào nước tiểu, do đó giúp điều chỉnh nồng độ nước trong các dịch cơ thể.

Oxytocin giúp bài xuất sữa từ tuyến vú ra núm vú trong giai đoạn cho con bú và có tác dụng trong quá tình chuyển dạ vào cuối thai kì.

Thùy trước tuyến yên có các loại tế bào tiết khác nhau tổng hợp và bài tiết các hormone

Cấu trúc tế bào của thùy trước tuyến yên

Hình. Cấu trúc tế bào của thùy trước tuyến yên.

Thông thường, chỉ có một loại tế bào tiết ra một hormone chính ở thùy trước tuyến yên. Trong một số trường hợp đặc biệt có một số kháng thể đặc hiệu gắn vào những hormone đặc biệt, ít nhất có 5 loại tế bào đã được phát hiện (HÌNH 76-3). BẢNG 76-1 trình bày tổng quan các loại tế bào, các hormone chúng tiết ra, và chức năng sinh lý của chúng. 5 loại tế bào gồm:

1. Somatotropes - hormone tăng trường (GH)

2. Corticotropes - kích thích tủy thượng thận (ACTH)

3. Thyrotropes - kích thích tuyến giáp (TSH)

4. Gonadotropes - kích thích tuyến sinh dục, gồm LH và FSH

5. Lactotropes - prolactin (PRL)

Tế bào và nội tiết tố của thùy trước tuyến yên

Bảng. Tế bào và nội tiết tố của thùy trước tuyến yên và chức năng sinh lý của chúng

Có khoảng 30 - 40% các tế bào tuyến yên trước là loại somatotropes tiết ra hormone GH, và khoảng 20% là loại corticotropes tiết ACTH. Các loại còn lại chiếm chỉ khoảng 3 đến 5 % tổng số tế bào; tuy nhiên, chúng tiết ra những hormone rất mạnh fđể điều khiển chức năng tuyến giáp, chức năng sinh dục, và tiết sữa ở vú.

Somatotropes đổi màu mạnh trong môi trường acid và do đó còn được gọi là acidophils. Do đó, các khối u tuyến yên tiết một lượng lớn GH được gọi là các u acidophils.

Các hormone tuyến yên sau được tổng hợp tại các thân tế bào trên vùng dưới đồi

Thân các tế bào tiết ra những hormone tuyến yên sau không nằm trong tuyến yên mà là những neuron lớn, gọi là magnocellular neurons, nằm ở vùng trên giao thoa thị và các nhân cận giao thoa thị giác ở vùng dưới đồi. Các hormone sau đó được vận chuyển qua sợi trục đi từ vùng dưới đồi đến thùy sau tuyến yên.

Bài viết cùng chuyên mục

Hấp thu ở đại tràng và hình thành phân

Phần lớn hấp thu ở đại tràng xuất hiện ở nửa gần đại tràng, trong khi chức năng phần sau đại tràng chủ yếu là dự trữ phân cho đến một thời điểm thích hợp để bài tiết phân và do đó còn được gọi là đại tràng dự trữ.

Cơ chế tác động nội bào của testosterone

Testosteron kích thích tăng sản xuất protein ở hầu hết các mô trong cơ thể, đặc biệt là ở các mô cơ quan chịu trách nhiệm cho sự phát triển đặc tính sinh dục nam nguyên phát hoặc thứ phát.

Insulin và ảnh hưởng lên chuyển hóa

Insulin được biết đến rằng có liên hệ với đường huyết, và đúng như vậy, insulin có ảnh hưởng lớn đến quá trình chuyển hóa carbohydrate.

Chu chuyển của tim

Tâm nhĩ hoạt động như một bơm khởi đầu cho tâm thất, và tâm thất lần lượt cung cấp nguồn năng lượng chính cho sự vận chuyển máu qua hệ thống mạch trong cơ thể.

Cơ chế phân tử của sự co cơ

Ở trạng thái co, các sợi actin này đã được kéo vào bên trong các sợi myosin, do đó hai đầu của chúng chồng lên nhau đến mức độ tối đa.

Chức năng dự báo của hệ thống ống bán khuyên để duy trì sự thăng bằng

Các ống bán khuyên dự đoán được trước rằng sự mất thăng bằng sắp xảy ra và do đó khiến các trung tâm giữ thăng bằng thực hiện sự điều chỉnh phù hợp từ trước, giúp người đó duy trì được thăng bằng.

Sự tổng hợp Carbohydrates từ Proteins và chất béo - Quá trình tân tạo glucose

Khi kho dự trữ carbohydrates của cơ thể giảm xuống dưới mức bình thường, một lượng vừa phải glucose có thể được tổng hợp từ amino acids và phần glycerol của chất béo.

Dịch vào ra của cơ thể: cân bằng trong trạng thái ổn định

Dịch trong cơ thể rất hằng định, bởi vì nó liên tục được trao đổi với môi trường bên ngoài cũng như với các bộ phận khác trong cơ thể.

Tự điều chỉnh lưu lượng máu trong quá trình thay đổi áp lực động mạch

Xu hướng trở về bình thường của dòng máu được gọi là sự điều chỉnh tự động. Sau khi trao đổi chất tích cực xảy ra, dòng máu tại chỗ ở hầu hết các mô sẽ liên quan đến áp lực động mạch.

Giải phẫu chức năng của khu vực liên hợp trán trước

Khu vực liên hợp trước trán cũng cần thiết để thực hiện quy trình “tư tưởng”. Đặc điểm này có lẽ là kết quả của một số tính năng tương tự của vỏ não trước trán cho nó lập kế hoạch hoạt động vận động.

Sự tiết Progesterone của nhau thai

Progesterone góp phần vào sự phát triển của thai, làm tăng bài tiết của ống dẫn trứng và tử cung người mẹ ddeer cung cấp  chất dinh dưỡng thích hợp cho sự phát triển của phôi dâu và túi phôi.

Ảnh hưởng của insulin lên chuyển hóa carbohydrat

Tác dụng của insulin trong việc tăng cường nồng độ glucose bên trong tế bào cơ, trong trường hợp không có insulin, nồng độ glucose nội bào vẫn gần bằng không, mặc dù nồng độ glucose ngoại bào cao.

Nồng độ canxi và phosphate dịch ngoại bào liên quan với xương

Tinh thể xương lắng đọng trên chất căn bản xương là hỗn hợp chính của calcium và phosphate. Công thức chủ yếu của muối tinh thể, được biết đến như là hydroxyapatit.

Thở ô xy toàn phần: tác động lên PO2 ở các độ cao khác nhau

SaO2 ở các độ cao khác nhau trong trường hợp thở oxy toàn phần. Chú ý rằng SaO2 luôn đạt mức trên 90% khi ở độ cao dưới 11900 m, và giảm nhanh xuống 50% ở độ cao 14330 m.

Mức độ thiếu oxy mà một trẻ sơ sinh có thể chịu đựng được

Khi phế nang mở, hô hấp có thể bị ảnh hưởng thêm với vận động hô hấp tương đối yếu. May mắn thay, hít vào của trẻ bình thường rất giàu năng lượng; Có khả năng tạo ra áp lực âm trong khoang màng phổi lên đến 60mmHg.

Dẫn truyền synap: một số đặc điểm đặc biệt

Quá trình thông tin được truyền qua synap phải qua nhiều bước: đưa các bọc nhỏ xuống, hòa màng với màng của cúc tận cùng, chất truyền đạt giải phóng và khuếch tán trong khe synap, gắn với receptor ở màng sau synap, mở kênh ion gây khử cực màng.

Vai trò tạo điều kiện thuận lợi và ức chế khớp thần kinh (synap)

Trí nhớ thường được phân loại theo loại thông tin mà nó lưu trữ. Một trong những cách phân loại đó là chia trí nhớ thành trí nhớ tường thuật (declarative memory) và trí nhớ kỹ năng (skill memory).

Giải phóng năng lượng cho cơ thể từ thực phẩm và năng lượng tự do

Năng lượng đòi hỏi cho hoạt động của cơ, sự bài tiết của các tuyến, duy trì điện thế màng ở sợi thần kinh và sợi cơ, sự tổng hợp vật chất trong tế bào, hấp thu thức ăn từ ống tiêu hóa và rất nhiều chức năng khác.

Giải phẫu chức năng của vùng vỏ não nhận diện khuôn mặt

Người ta có thể tự hỏi tại sao rất nhiều diện tích vỏ não được dành cho nhiệm vụ đơn giản là nhận diện khuôn mặt. Tuy nhiên, hầu hết các công việc hàng ngày liên quan đến các liên kết với những người khác nhau.

Sự vận chuyển CO2 trong máu và mô kẽ

Khi các tế bào sử dụng O2, hầu hết sẽ tạo ra PO2, và sự biến đổi này làm tăng PCO2 nội bào; vì PCO2 nội bào tăng cao nên CO2 khuếch tán từ tế bào vào các mao mạch và sau đó được vận chuyển trong máu đến phổi.

Điều chỉnh nhanh huyết áp: vai trò của hệ thống thần kinh

Tính chất đặc biệt quan trọng của thần kinh điều chỉnh huyết áp là sự đáp ứng nhanh, bắt đầu ở giây đầu tiên và thường tăng huyết áp gấp 2 lần bình thường trong 5 đến 10 giây.

Điều hòa lưu lượng máu trong thời gian dài

Nếu mô hoạt động quá mức quá lâu, yêu cầu tăng số lượng oxy và các chất dinh dưỡng, các tiểu động mạch và các mao mạch thường tăng cả số lượng và kích thước trong một vài tuần để cân xứng với nhu cầu của mô.

Cơ quan tiền đình: duy trì sự thăng bằng

Phần trên của hình biểu diễn mê đạo màng. Nó bao gồm phần lớn ốc tai màng (cochlea), 3 ống bán khuyên, 2 buồng lớn, soan nang (bầu tiền đình) và cầu nang (túi tiền đình).

Sinh lý tiêu hóa ở dạ dày

Lúc đói, cơ dạ dày co lại, khi ta nuốt một viên thức ăn vào thì cơ giãn ra vừa đủ, để chứa viên thức ăn đó, vì vậy áp suất trong dạ dày không tăng lên.

Bài tiết chất nhầy và gastrin ở tuyến môn vị

Tế bào bài tiết một lượng nhỏ pepsinogen, như đã nói ở trên, và đặc biệt là bài tiết một lượng lớn lớp chất nhày mỏng để giúp bôi trơn thức ăn khi di chuyển, cũng như bảo vệ thành của dạ dày khỏi sự phân hủy của các enzyme.