- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Sự thích nghi của áp suất ô xy máu thấp và ảnh hưởng cấp của giảm ô xy máu
Sự thích nghi của áp suất ô xy máu thấp và ảnh hưởng cấp của giảm ô xy máu
Một trong ảnh hưởng quan trọng nhất của giảm oxy máu là giảm nhận thức, gây nên giảm tư duy, trí nhớ, và hiệu suất của các vận động phức tạp.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Ảnh hưởng cấp của giảm ô xy máu
Một vài ảnh hưởng cấp của giảm oxy máu xảy ra trong những bệnh nhân chưa thích nghi với không khí thở, bắt đầu ở độ cao khoảng 12000 feet, gồm lơ mơ, uể oải, mệt mỏi tinh thần và cơ bắp, đôi khi đau đầu, thỉnh thoảng buồn nôn, và đôi khi có trạng thái phởn phơ. Những ảnh hưởng này tiến tới một giai đoạn co giật hay động kinh ở độ cao trên 18000 feet và kết thúc, trên 23000 feet ở người chưa thích nghi, gây hôn mê, và nguy cơ tử vong ngay sau đó.
Một trong ảnh hưởng quan trọng nhất của giảm oxy máu là giảm nhận thức, gây nên giảm tư duy, trí nhớ, và hiệu suất của các vận động phức tạp. Ví dụ, nếu một phi công chưa quen khí hậu ở lại độ cao 15000 feet trong 1 giờ, nhận thức thường giảm còn 50% bình thường, và sau 18 giờ ở độ cao đó, nhận thức chỉ còn lại 20%.
Sự thích nghi của áp suất ô xy máu thấp
Một người ở độ cao nhất định trong vài ngày, vài tuần, hay vài năm sẽ càng thich nghi với khí hậu oxy loãng, vì vậy nó gây hại ít hơn lên cơ thể. Sau khi thích nghi, người đó có thể làm việc nhiều hơn mà không chịu ảnh hưởng của oxy loãng hay có thể lên độ cao hơn nữa. Các biện pháp chủ yếu giúp thích nghi khí hậu gồm (1) tăng đáng kể thông khí phổi, (2) tăng số lượng hồng cầu, (3) tăng dung tích trao đổi của phổi, (4) tăng tưới máu tới mô ngoại vi, (5) tăng khả năng chịu oxy kém ở tế bào mô.
Tăng thông khí phổi – Vai trò của các receptor nhận cảm hóa học
Tiếp xúc trực tiếp với Po2 thấp kích thích các nhận cảm hóa học động mạch, và sự kích thích này làm tăng thông khí lên đến 1.65 lần. Do đó, sự bù xảy ra trong vài giây ở độ\ cao nhất định, và mình nó cho phép người lên cao vài nghìn feet hơn mức có thể mà không cần tăng thông khí. Nếu người đó ở lại độ cao rất cao trong vài ngày, thụ cảm hóa học sẽ tăng thông khí hơn nữa, lên đến khoảng 5 lần bình thường. Sự tăng thông khí tức thì trong khi lên độ cao nhất định làm mất đi lượng lớn CO2, làm giảm Pco2 và tăng pH trong dịch cơ thể. Sự thay đổi này làm ức chế trung tâm hô hấp thân não và điều đó đối lập với ảnh hưởng của giảm Po2 gây kích thích hô hấp qua thụ thể hóa học ở xoang động mạch cảnh và quai động mạch chủ. Tuy nhiên, sự ức chế này mất dần đi sau 2 đến 5 ngày, cho phép trung tâm hô hấp hoạt động trở lại đáp ứng với đủ nhận cảm hóa học từ sự giảm oxy máu, và thông khí tăng lên 5 lần so với bình thường.
Nguyên nhân của sự giảm ức chế này được cho là chủ yếu do giảm nồng độ bicarbonate trong dịch não tủy, cũng như mô não. Sự giảm này kéo theo giảm pH trong dịch quanh thụ cảm hóa học thần kinh của trung tâm hô hấp, làm tăng kích thích hô hấp.
Một cơ chế quan trọng cho sự giảm dần nồng độ bicarbonate là sự bù của thận trong nhiễm kiềm hô hấp, được bàn luận ở chương 31. Thận đáp ứng với sự giảm Pco2 bằng cách giảm ion H+ bài tiết và tăng đào thải bircabonat. Quá trình bù chuyển hóa cho nhiễm kiềm hô hấp làm giảm nồng độ bircabonat huyết thanh và dịch não tủy và pH trở về bình thường và cắt bỏ một phần ảnh hưởng ức chế hô hấp của giảm nồng độ H+. Vì vậy, trung tâm hô hấp nhận nhiều hơn nữa đáp ứng với kích thích thụ cảm hóa học ngoại vi, gây ra bởi sự giảm oxy máu sau khi thận bù cho nhiễm kiềm.
Tăng tế bào hồng cầu và nồng độ hemoglobin trong thích nghi với độ cao
Như đã bàn luận trong chương 33, giảm oxy máu là kích thích chính làm tăng sản sinh hồng cầu. Trường hợp nồng độ oxy của một người ở mức thấp trong nhiều tuần liền, hematocrit tăng dần từ giá trị bình thường 40-45% lên trung bình 60%, hemoglobin tăng trung bình từ gía trị bình thường (15 g/dL) lên 20 g/dL. Thêm nữa, thể tích máu cũng tăng từ 20- 30%, nhân thêm với tăng hemoglobin, suy ra lượng hemoglobin toàn cơ thể tăng tới 50% hoặc hơn nữa.
Tăng dung tích khuếch tán sau thích nghi
Dung tích khuếch tán (DL) bình thường của oxy đi qua màng phế nang là 21 ml/mmHg/phút, và có thể tăng gấp 3 lần khi tập thể dục hoặc khi lên các nơi cao. Một phần nguyên nhân tăng dung tích khuếch tán là do tăng lượng máu mao mạch phổi, làm giãn các mạch giúp oxy khuếch tán vào máu dễ dàng hơn. Một nguyên nhân khác là tăng dung tích phổi, làm giãn nỡ phế nang và tăng diện tích trao đổi phế nang-mao mạch. Nguyên nhân cuối cùng là tăng áp động mạch phổi, dẫn tới tăng bơm máu vào các mao mạch phổi hơn so với bình thường, đặc biệt là thùy trên phổi, là nơi được cấp máu ít ở tình trạng bình thường.
Thay đổi hệ thống tuần hoàn ngoại biên khi thích nghi - Tăng lượng mao mạch ở các mô trong cơ thể
Lưu lượng tuần hoàn thường tăng ngay lập tức 30% sau khi một người chuyển tới vùng cao nhưng sau đó sẽ giảm về mức bình thường. Thời gian giảm thường kéo dài hàng tuần liền cùng với sự tăng hematocrit. Do vậy lượng oxy vận chuyển tói các mô ngoại vi của cơ thể vẫn giữ ở mức bình thường.
Một thích ứng nữa của hệ tuần hoàn là tăng số lượng các mao mạch ở các mô ngoài phổi, hay còn gọi là tăng sinh mạch. Đặc biệt, sự thích ứng này xảy ra ở động vật mới sinh và đang còn non sống những nơi cao. Tuy nhiên, tăng sinh mạch ít gặp khi động vật lớn hơn di chuyển lên các vùng cao. Những mô hoạt động biểu hiện thiếu oxy máu, tăng sinh mạch thường gặp. Ví dụ, mật độ mao mạch ở cơ tâm thất phải tăng bởi sự kết hợp của thiếu oxy máu và tăng gánh của thất phải do tăng áp động mạch phổi ở vùng cao.
Sự thích nghi của tế bào
Ở động vật sống ở độ cao 4000-5200m, hệ thống ti lạp thể và enzym oxy hóa tế bào nhiều hơn một chút so với động vật số ở gần biển. Do đó, tế bào của những người thích nghi với độ cao được cho là sử dụng oxy hiệu quả hơn so với những người sống ở gần biển.
Bài viết cùng chuyên mục
Synap thần kinh trung ương: Receptor kích thích hay ức chế tại màng sau synap
Thay đổi về quá trình chuyển hóa nội bào ví dụ như làm tăng số lượng thụ thể màng kích thích hoặc giảm số lượng thụ thể màng ức chế cũng có thể kích thích hoạt động của tế bào thần kinh.
Phản xạ gấp và phản xạ rút lui khỏi vật kích thích
Các thông tin khởi phát phản xạ rút lui không được truyền trực tiếp vào neuron sừng trước tủy sống mà thay vào đó trước tiên được truyền vào các neuron liên hợp, rồi mới vào neuron vận động.
Những chức năng đặc biệt ở trẻ sơ sinh
Đặc trưng quan trọng của trẻ sơ sinh là tính không ổn định của hệ thống kiểm soát hormone và thần kinh khác nhau, một phần là do sự phát triển chưa đầy đủ của các cơ quan và hệ thống kiểm soát chưa được thích nghi.
Tính nhịp điệu của mô dễ bị kích thích phóng điện lặp lại
Các dòng chảy của các ion kali tăng lên mang số lượng lớn của các điện tích dương ra bên ngoài của màng tế bào, để lại một lượng đáng kể ion âm hơn trong tế bào xơ hơn trường hợp khác.
Các sợi thần kinh cảm giác hướng tâm từ ruột
Có nhiều sợi thần kinh cảm giác hướng tâm phân bố tại ruột. Một số sợi thần kinh có thân neuron nằm trong hệ thần kinh ruột và một số lại nằm trong hạch gai của tủy sống.
Phối hợp các chức năng của cơ thể qua chất dẫn truyền hóa học
Hormone được vận chuyển trong hệ tuần hoàn đến các tế bào đích trong cơ thể, gồm cả tế bào trong hệ thần kinh, tại nơi chúng gắn vào các receptor và tạo ra sự phản hồi của tế bào.
Sự bảo vệ cơ thể và tái sản xuất
Hệ miễn dịch có các vai trò phân biệt tế bào của cơ thể với tế bào và các chất lạ thường; phá hủy chúng nhờ đại thực bào hoặc tạo ra các lympho bào và prôtein đặc hiệu hoặc làm vô hiệu hoá các kháng nguyên.
Soi đáy mắt: quan sát nhìn vào phía trong mắt
Kính soi đáy mắt là dụng cụ có cấu tạo phức tạp nhưng nguyên lý của nó rất đơn giản. Cấu tạo của nó được mô tả và có thể được giải thích như sau.
Vai trò của insulin trong chuyển đổi carbohydrate và chuyển hóa lipid
Khi nồng độ glucose máu cao, insulin được kích thích bài tiết và carbohydrate được sử dụng thay thế chất béo. Glucose dư thừa trong máu được dự trữ dưới dạng glycogen và chất béo ở gan, glycogen ở cơ.
Tế bào cơ thể người chết theo chương trình: Apoptosis
Ngay cả ở người trưởng thành, tỷ tế bào chết mỗi giờ trong các mô như ruột và tủy xương và được thay thế bằng tế bào mới. Lập trình chết tế bào, tuy nhiên, thường là sự cân bằng sự hình thành các tế bào mới ở người trưởng thành khỏe mạnh.
Insulin và ảnh hưởng lên chuyển hóa
Insulin được biết đến rằng có liên hệ với đường huyết, và đúng như vậy, insulin có ảnh hưởng lớn đến quá trình chuyển hóa carbohydrate.
Tần số âm thanh: định nghĩa nguyên lý vị trí thính giác
Phương pháp chủ yếu để hệ thần kinh phát hiện ra các tần số âm thanh khác nhau là xác định vị trí trên màng nền nơi mà nó được kích thích nhiều nhất, nó được gọi là nguyên lý vị trí trong xác định tần số âm thanh.
Di chuyển của các dòng điện trong ngực quanh tim trong suốt chu kỳ tim
Xung động tim đầu tiên đến trong tâm thất trong vách liên thất và không lâu sau đó lan truyền đến mặt bên trong của phần còn lại các tâm thất, như thể hiện bởi vùng màu đỏ và điện âm ký hiệu trên hình.
Hệ tuần hoàn: dòng máu chảy
Tất cả lưu lượng máu trong toàn bộ hệ tuần hoàn ở người trưởng thành khoảng 5000ml/phút. Đó là lượng lưu lượng tim bởi vì lượng máu bơm qua động mạch bởi tim trong mỗi phút.
Giải phẫu và sinh lý cơ quan sinh dục nam
Hai túi tinh nằm ở 2 bên tuyến tiền liệt, dẫn tinh trùng vào tuyến tiền liệt và tận cùng ở bóng tinh. Niệu quản là nơi cuối cùng dẫn tinh trùng từ tinh hoàn ra bên ngoài.
Phản xạ tủy sống gây co cứng cơ
Các xương bị gẫy gửi các xung động về cảm giác đau về tủy sống, gây ra co cơ xung quanh. Khi gây tê cục bộ hay gây tê toàn thân, kích thích đau biến mất, sự co thắt cũng biến mất.
Cung lượng tim: là tổng máu tuần hoàn qua mô phụ thuộc vào tuần hoàn ngoại vi
Tổng lưu lượng máu của tuần hoàn ngoại vi chính là tuần hoàn tĩnh mạch, và tim hoạt động một cách tự động để bơm máu quay trở lại tuần hoàn chung của cơ thể.
Kiểm soát lưu lượng máu mô bằng các yếu tố thư giãn hoặc co thắt có nguồn gốc từ nội mô
Điều quan trọng nhất của các yếu tố giãn mạch nội mô là NO, một khí ưa mỡ được giải phóng từ tế bào nội mô đáp ứng với rất nhiều kích thích hóa học và vật lý.
Phản xạ nhĩ và động mạch phổi điều hòa huyết áp
Ở thành của tâm nhĩ và động mạch phổi có receptor căng gọi là receptor hạ áp, nó giống với thụ thể cảm nhận của động mạch hệ tuần hoàn lớn.
Sinh lý sinh dục nữ giới
Cơ quan sinh dục nữ gồm: (1) buồng trứng, (2) vòi trứng, (3) tử cung, (4) âm đạo và (5) âm hộ. (6) Tuyến vú cũng được xem là một phần của cơ quan sinh dục nữ (hình).
Chu kỳ gan ruột của muối mật trong tiêu hóa và hấp thu chất béo
Khoảng 94% muối mật ở ruột non sẽ được tái hấp thu vào trong máu, khoảng một nửa số này sẽ được khuếch tán qua niêm mạc ruột non và phần còn lại được tái hấp thu thông qua quá tŕnh vận chuyển tích cực ở niêm mạc ruột.
Sinh lý điều hòa lưu lượng máu não
Lưu lượng máu não của một người trưởng thành trung bình là 50 đến 65 ml/100 gam nhu mô não mỗi phút. Với toàn bộ não là từ 750 đến 900 ml/ phút. Theo đó, não bộ chỉ chiếm 2% trọng lượng cơ thể nhưng nhận 15% cung lượng tim lúc nghỉ.
Các cơ chế giữ ổn định mắt của tiền đình và yếu tố khác
Mỗi thời điểm đầu bị quay đột ngột, những tín hiệu từ các ống bán khuyên khiến cho mắt quay theo một hướng cân bằng và đối diện với sự quay của đầu. Chuyển động đó có nguồn gốc từ các phản xạ từ nhân tiền đình và bó dọc giữa.
Sự khuếch tán dễ qua màng tế bào
Khuếch tán được làm dễ cần đến sự giúp đỡ của protein mang. Protein mang giúp một phân tử hay ion đi qua màng bởi liên kết hóa học với chúng.
Điều hòa bài tiết cortisol ở vỏ thượng thận do tuyến yên
ACTH kích thích kiểm soát bài tiết của vỏ thượng thận là kích hoạt các protein enzyme kinase A, làm chuyển hóa ban đầu của cholesterol thành Pregnenolone.