Sóng khử cực và sóng tái cực: điện tâm đồ bình thường

2020-08-06 03:53 PM

ECG bình thường bao gồm một sóng P, một phức bộ QRS và một sóng T. Phức bộ QRS thường có, nhưng không phải luôn luôn, ba sóng riêng biệt: sóng Q, sóng R, và sóng S.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Khi xung động tim xuyên qua tim, dòng điện cũng lan truyền từ tim vào trong các mô lân cận xung quanh tim.

Một phần nhỏ của dòng điện lan truyền theo tất cả các đường đến bề mặt của cơ thể. Nếu các điện cực được đặt trên da ở hai phía đối diện của tim, điện thế tạo ra bởi dòng điện có thể được ghi lại; việc ghi này được biết như là một điện tâm đồ (ECG). Một ECG bình thường cho hai nhịp đập của tim được thể hiện trong hình.

Điện tâm đồ bình thường

Hình. Điện tâm đồ bình thường.

ECG bình thường bao gồm một sóng P, một phức bộ QRS và một sóng T. Phức bộ QRS thường có, nhưng không phải luôn luôn, ba sóng riêng biệt: sóng Q, sóng R, và sóng S.

Sóng P được gây ra bởi điện thế phát ra khi tâm nhĩ khử cực trước khi tâm nhĩ bắt đầu co bóp. Phức bộ QRS được gây ra bởi điện thế phát ra khi tâm thất khử cực trước khi co bóp, tức là, cũng như sóng khử cực lan truyền qua các tâm thất. Do đó, cả sóng P và các thành phần của phức bộ QRS là các sóng khử cực.

Sóng T được gây ra bởi điện thế phát ra khi tâm thất phục hồi từ trạng thái khử cực. Quá trình này thường xảy ra trong cơ tâm thất 0,25 đến 0,35s sau khi khử cực.

Sóng T được biết như là một sóng tái phân cực.

Như vậy, điện tâm đồ bao gồm cả sóng khử cực và tái phân cực. Việc phân biệt giữa các sóng khử cực và các sóng tái phân cực là rất quan trọng trong điện tâm đồ mà làm sáng tỏ hơn nữa là cần thiết.

Hình biểu diễn một sợi cơ tim đơn lẻ trong bốn giai đoạn của sự khử cực và tái phân cực, với màu đỏ ký hiệu sự khử cực. Trong suốt quá trình khử cực, điện thế âm bình thường bên trong sợi đảo chiều và trở nên hơi dương bên trong và âm ở bên ngoài.

Bản ghi sóng khử cực

Hình. Bản ghi sóng khử cực (A và B) và sóng tái phân cực (C và D) từ một sợi cơ tim.

Trên hình A, quá trình khử cực, thể hiện bởi các điện tích dương màu đỏ bên trong và điện tích âm màu đỏ ở bên ngoài, được di chuyển từ trái sang phải. Nửa đầu tiên của sợi đã khử cực, trong khi nửa còn lại vẫn đang phân cực. Do đó, điện cực bên trái trên mặt ngoài của sợi là trong một vùng của điện âm, và điện cực bên phải là trong một vùng của điện dương, khiến đồng hồ ghi lại một điện dương. Ở bên phải của sợi cơ thể hiện một bản ghi của những thay đổi về điện thế giữa hai điện cực, như đã được ghi bởi một đồng hồ tốc độ cao. Lưu ý rằng khi sự khử cực đã đạt một nửa đích ở hình A, ghi được sự tăng điện dương đến mức tối đa.

Trên hình B, sự khử cực đã kéo dài trên toàn bộ sợi cơ, và bản ghi phía bên phải đã trở lại với đường đẳng điện vì cả hai điện cực bây giờ đang ở khu vực có điện âm bằng nhau. Sóng hoàn chỉnh là một sóng khử cực vì nó là kết quả từ sự lan truyền của khử cực dọc theo màng tế bào sợi cơ.

Hình C biểu diễn sự tái phân cực nửa chừng vẫn của sợi cơ trên, với sự trở lại ra bên ngoài điện dương của sợi. Tại thời điểm này, điện cực bên trái là trong một vùng của điện dương và điện cực bên phải là trong một vùng của điện âm. Chiều phân cực này là ngược lại với chiều phân cực trong hình A. Do đó, bản ghi, như thể hiện bên phải, trở thành âm.

Trên hình D, sợi cơ đã hoàn thành tái phân cực, và cả hai điện cực bây giờ đang ở vùng của điện dương do đó không có điện thế nào khác được ghi lại giữa chúng. Như vậy, trong bản ghi bên phải, điện thế một lần nữa quay trở lại về 0. Sóng âm hoàn chỉnh này là một sóng tái phân cực vì nó là kết quả từ sự lan truyền của tái phân cực dọc theo màng tế bào sợi cơ.

Mối quan hệ của điện thế hoạt động một pha của cơ tâm thất với sóng T và phức bộ QRS trong điện tâm đồ tiêu chuẩn:

Điện thế hoạt động một pha của cơ tâm thất, bình thường tồn tại giữa 0,25 và 0,35s. Phần bên trên của

Hình biểu diễn một điện thế hoạt động một pha ghi lại từ một vi điện cực chèn vào bên trong của một sợi cơ tâm thất đơn độc. Sự tăng lên của điện thế hoạt động gây ra bởi sự khử cực, và sự trở lại của điện thế về đường cơ sở là do sự tái phân cực.

Điện thế hoạt động một pha từ sợi cơ tâm thất

Hình. Trên, điện thế hoạt động một pha từ sợi cơ tâm thất khi chức năng tim bình thường cho thấy khử cực nhanh và sau đó tái cực xảy ra chậm trong giai đoạn cao nguyên nhưng nhanh chóng về cuối. Dưới, điện tâm đồ ghi đồng thời.

Nửa dưới của hình biểu diễn một ghi chép đồng thời của ECG từ cùng tâm thất này. Lưu ý rằng các sóng QRS xuất hiện vào lúc bắt đầu của điện thế hoạt động một pha và sóng T xuất hiện ở cuối. Lưu ý đặc biệt là không có điện thế được ghi lại trong ECG khi cơ tâm thất hoặc hoàn thành phân cực hoặc hoàn thành khử cực.

Chỉ khi nào cơ một phần được phân cực và một phần khử cực thì có dòng điện đi từ một phần của tâm thất đến một phần khác, và do đó cũng có dòng điện đi tới bề mặt của cơ thể để tạo ra ECG.

Bài viết cùng chuyên mục

Sự vận chuyển O2 trong máu và mô kẽ

Các loại khí có thể di chuyển từ nơi này đến nơi khác bằng cách khuếch tán và nguyên nhân của sự vận chuyển này là sự chênh lệch về phân áp từ vị trí đầu tiên cho tới vị trí tiếp theo.

Chuyển hóa của thai nhi

Thai có khả năng dự trữ chất béo và protein, hầu hết chất béo được tổng hợp từ đường. Những vẫn đề đặc biệt chuyển hóa của thai liên quan đến calci, phosphate, sắt và một số vitamin.

Áp suất dịch não tủy bình thường không đổi

Áp suất dịch não tủy bình thường khi nằm trung bình là 130 mm nước (10mmHg), tuy nhiên áp suất này cũng có thể thấp chỉ 65 mm nước hoặc cao đến 195 mm nước ở người khỏe mạnh bình thường.

Bài tiết dịch tiêu hóa ruột bởi hang Lieberkuhn

Tế bào biểu mô nằm sâu trong các hang tuyến Lieberkuhn liên tục phân chia, và những tế bào mới di chuyển dọc theo màng đáy lên phía trên và ra ngoài tới đỉnh của các lông nhung.

Điều hòa chức năng thực vật và nội tiết của vùng dưới đồi

Để minh họa cấu tạo của vùng dưới đồi cũng như đơn vị chức năng của vùng dưới đồi, chúng ta tổng hợp chức năng thực vật và nội tiết quan trọng ở đây.

Dịch cơ thể và muối trong tập luyện thể thao

Kinh nghiệm đã chứng minh vẫn còn vấn đề điện giải khác ngoài natri, là mất kali. Mất kali kết quả một phần từ sự tiết tăng aldosterone trong thích nghi với khí hậu nhiệt, làm tăng mất kali trong nước tiểu, cũng như mồ hôi.

Sự co bóp cơ học của cơ vân

Các sợi cơ ở mỗi đơn vị vận động không tụ lại tất cả trong cơ mà chồng lên các đơn vị vận động khác trong các vi bó của 3 đến 15 sợi.

Chức năng sinh lý của oxytocin

Oxytocin làm co tử cung khi mang thai, khiến vú bài xuất sữa, Hormone oxytocin, kích thích mạnh mẽ co tử cung khi mang thai, nhất là trong giai đoạn cuối của thai kì.

Điều hòa vận động: vai trò của phản xạ gân

Các thụ thể ở gân cũng có đáp ứng động và đáp ứng tĩnh giống như suốt cơ, đáp ứng mạnh mẽ với sự thay đổi đột ngột trương lực cơ rồi ngay sau đó giảm xuống, đáp ứng một cách yếu hơn nhưng bền vững hơn để duy trì trạng thái trương lực cơ mới.

Feedback dương của estrogen và sự tăng đột ngột LH thời kỳ tiền rụng trứng

Trong chu kì, vào thời điểm đó estrogen có riêng một feedback dương tính kích thích tuyến yên bài tiết LH, và một kích thích nhỏ bài tiết FSH, đây là một sự tương phản rõ ràng với feedback âm tính xảy ra trong giai đoạn còn lại của chu kỳ kinh nguyệt.

Vận chuyển các chất qua màng bào tương bằng túi

Trong bào tương các túi nhập bào sẽ hoà lẫn với lysosome, các thành phần trong túi nhập bào sẽ bị thủy phân bởi các enzyme

Cơ chế chung của sự co cơ

Acetylcholine hoạt động trên một khu vực cục bộ của màng sợi cơ để mở các kênh cation có “cổng acetylcholine” thông qua các phân tử protein lơ lửng trong màng.

Đái tháo đường type 2: kháng insulin

Bệnh tiểu đường type 2 là phổ biến hơn so với type 1, chiếm khoảng 90% đến 95% của tất cả các bệnh nhân đái tháo đường. Trong hầu hết các trường hợp, sự khởi đầu của bệnh tiểu đường type 2 xảy ra sau tuổi 30, thường ở độ tuổi từ 50 đến 60.

Ngoại tâm thu nhĩ: rối loạn nhịp tim

Khi tim co sớm hơn bình thường, tâm thất chưa nhận đầy máu như bình thường và nhát bóp đó bơm ít máu hơn. Do đó sóng đập của nhát bóp đó lên thành mach sẽ yếu hơn thậm chí là yếu đến mức không thể bắt được gọi làm mạnh chìm.

Lượng sợi actin và myosin chồng lên nhau quyết định tăng lực co bóp khi co cơ

Toàn bộ cơ có một lượng lớn của mô liên kết ở trong nó; ngoài ra, các đơn vị co cơ trong các phần khác nhau của cơ không phải luôn luôn co bóp với cùng số lượng.

Synap thần kinh trung ương: synap hóa và synap điện

Sự dẫn truyền tín hiệu tại ở loại synap hóa học chỉ theo 1 chiều, từ sợi thần kinh tiết ra chất dẫn truyền (được gọi là sợi trước synap) đến sợi sau nó (được gọi là sợi sau synap).

Kiểm soát cục bộ lưu lượng máu đáp ứng nhu cầu của mô

Lưu lượng máu đến da quyết định sự thải nhiệt từ cơ thể, giúp kiểm soát nhiệt độ cơ thể. Ngoài ra sự vận chuyển đầy đủ máu đến thận cho phép thận lọc và bài tiết các chất thải của cơ thể, điều chỉnh thể tích dịch cơ thể và chất điện giải.

TSH từ thùy trước tuyến yên kiểm soát bài tiết hormon giáp

Kết hợp TSH với receptor đặc hiệu trên bề mặt màng tế bào tuyến giáp, hoạt hóa adenylyl cyclase ở màng tế bào, cuối cùng cAMP hoạt động như một chất truyền tin thứ 2 hoạt hóa protein kinase.

Trao đổi chất qua thành mạch máu: cân bằng starling

Lượng dịch lọc ra bên ngoài từ các đầu mao động mạch của mao mạch gần bằng lượng dịch lọc trở lại lưu thông bằng cách hấp thu. Chênh lệch một lượng dịch rất nhỏ đó về tim bằng con đường bạch huyết.

Chuyển hóa khoáng chất trong cơ thể

Số lượng trong cơ thể của các khoáng chất quan trọng nhất, và nhu cầu hằng ngày được cung cấp gồm magnesium, calcium, phosphorus, sắt, những nguyên tố vi lượng.

Cung lượng tim và áp lực nhĩ phải: đánh giá qua đường cong cung lượng tim và tuần hoàn tĩnh mạch

Hệ giao cảm tác động đến cả tim và tuần hoàn ngoại vi, giúp tim đập nhanh và mạnh hơn làm tăng áp lực hệ thống mạch máu trung bình vì làm co mạch, đặc biêt là các tĩnh mạch và tăng sức cản tuần hoàn tĩnh mạch.

Giải phẫu và chức năng sinh lý của vỏ não

Cấu trúc mô học điển hình của bề mặt vỏ não, với các lớp liên tiếp các loại tế bào thần kinh khác nhau. Hầu hết các tế bào thần kinh chia làm ba loại: tế bào dạng hạt, tế bào hình thoi, và tế bào hình tháp.

Chức năng của vỏ não tiền đình - chẩm ở bán cầu não không ưu thế

Nghiên cứu tâm lí ở bệnh nhân có tổn thương bán cầu không ưu thế đã chỉ ra rằng bán cầu này có thể đặc biệt quan trọng đối với sự hiểu biết và nhận thức âm nhạc, kinh nghiệm thị giác phi ngôn ngữ.

Chức năng của vỏ Limbic

Kích thích vùng khác nhau của vỏ Limbic sẽ gợi ra chức năng thực sự của mỗi vùng. Tuy nhiên, nhiều hành vi có thể được suy ra do kích thích một số vùng đặc biệt của vỏ Limbic.

Điều hòa vận động: vai trò thoi cơ trong các vận động chủ động

Bất cứ khi nào phải thực hiện một động tác yêu cầu độ chính xác và tỉ mỉ, sự kích thích thích hợp từ cấu tạo lưới thân não lên các suốt cơ sẽ giúp duy trì tư thế của các khớp quan trọng, giúp thực hiện các động tác chi tiết một cách khéo léo.