- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Phản xạ gấp và phản xạ rút lui khỏi vật kích thích
Phản xạ gấp và phản xạ rút lui khỏi vật kích thích
Các thông tin khởi phát phản xạ rút lui không được truyền trực tiếp vào neuron sừng trước tủy sống mà thay vào đó trước tiên được truyền vào các neuron liên hợp, rồi mới vào neuron vận động.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Ở tủy sống của các động vật mất não, hầu hết các kích thích cảm giác các chi đều gây ra co, qua đó rút chi ra khỏi vật kích thích. Phản xạ này được gọi là phản xạ gấp.
Ở dạng kinh điển, phản xạ gấp được kích thích bởi cảm giác đau, như châm kim, nóng, rách da... do vậy nó còn được gọi là phản xạ rút lui, phản xạ đau, hay phản xạ khó chịu (noticeptive). Kích thích receptor xúc giác cũng có thể gây ra một phản xạ rút lui yếu và ngắn.
Khi một phần cơ thể nào đó bị đau mà không phải các chi, phần này cũng sẽ rút lui khỏi kích thích. Mặc dù phản xạ này không gây ra bởi sự co cơ gấp nhưng vẫn có thể gọi là phản xạ gấp vì có cơ chế cơ bản giống nhau. Như vậy, có thể có nhiều dạng phản xạ rút lui khác nhau đối với các phần cơ thể khác nhau.
Cơ chế phản xạ rút lui. Bên trái hình cho ta thấy các đường liên hệ của cung phản xạ rút lui. Ở ví dụ này, khi bàn tay bị đau, các cơ gấp ở phần trên cánh tay bị kích thích và gấp lại, từ đó rút bàn tay ra khỏi kích thích.
Hình. Phản xạ uốn dẻo, phản xạ kéo dài chéo và ức chế tương hỗ.
Các thông tin khởi phát phản xạ rút lui không được truyền trực tiếp vào neuron sừng trước tủy sống mà thay vào đó trước tiên được truyền vào các neuron liên hợp, rồi mới vào neuron vận động. Cung phản xạ ngắn nhất cũng phải chứa 3 đến 4 neuron. Phần nhiều neuron thuộc các mạng như mạng phân kì (gây phản xạ lan tỏa đến các cơ cần thiết), mạng ức chế cơ đối lập, mạng lặp lại kích thích sau khi kích thích đã chấm dứt.
Hình là đồ thị cơ trong suốt phản xạ gấp. Chỉ vài mili giây sau khi bị kích thích đau, phản xạ gấp xuất hiện, sau đó vài mili giây, phản xạ bắt đầu yếu dần, đặc trưng cơ bản của mọi phản xạ tích hợp phức tạp của tủy sống. Cuối cùng, sau khi kích thích kết thúc, sự co cơ không ngay lập tức trở về trạng thái cơ bản mà mất vài mili giây nữa. Sự trì hoãn này dài hay ngắn phụ thuộc vào cường độ kích thích gây ra phản xạ, một kích thích yếu hầu như không gây trì hoãn, trong khi một kích thích mạnh có thể gây trì hoãn kéo dài vài giây.
Hình. Biểu đồ phản xạ cơ gấp cho thấy phản xạ bắt đầu nhanh chóng, khoảng thời gian mệt mỏi, và cuối cùng, sau khi xuất viện sau khi hết kích thích đầu vào.
Hiện tượng trì hoãn trong phản xạ gấp là kết quả của cả 2 loại cung lặp lại kích thích. Nghiên cứu điện sinh lí chỉ ra rằng hiện tượng trì hoãn tức thời hầu hết là do chính các neuron trung gian tự kích thích chính nó (dài 6-8 mili giây), còn ở hiện tượng trì hoãn kéo dài gây ra bởi các kích thích đau mạnh thì phần lớn là do các vòng phản xạ lặp lại trong mạng neuron (kéo dài vài giây sau khi hết kích thích đau).
Như vậy, phản xạ rút lui giúp cơ thể đáp ứng thích hợp với các kích thích có hại. Hơn nữa, nhờ có hiện tượng trì hoãn (lặp lại kích thích), phản xạ này có thể giữ phần bị tác động ở xa tác nhân kích thích thêm 0.1-3 giây nữa để chờ não quyết định di chuyển cơ thể về vị trí thích hợp.
Cách thức rút lui trong phản xạ gấp. Cách thức rút lui trong phản xạ gấp phụ thuộc vào dây thần kinh cảm giác nào bị kích thích. Như khi kích thích đau vào mặt trong cánh tay sẽ không chỉ nhóm cơ gấp mà cả nhóm cơ dạng cánh tay cũng bị kích thích co rút để đưa cánh tay ra ngoài. Nói cách khác, các trung tâm tích hợp và xử lí ở tủy sống sẽ kích thích gây hoạt động cơ một cách hiệu quả nhất để đưa cơ thể tránh xa tác nhân kích thích. Mặc dù nguyên lí này được áp dụng cho bất cứ bộ phận nào của cơ thể, nó được quan sát rõ nhất ở các chi do tại đây có sự phát triển mạnh mẽ của nhóm cơ gấp.
Bài viết cùng chuyên mục
Phân ly oxy - hemoglobin: các yếu tố thay đổi và tầm quan trọng tới sự vận chuyển ô xy
pH giảm hơn giá trị bình thường từ 7,4 xuống tới 7,2; đồ thị phân ly Oxy- hemoglobin chuyển sang phải trung bình khoảng 15 %. Ngược lại, sự gia tăng pH từ bình thường 7,4 lên tới7,6 đường cong cũng chuyển sang trái một lượng tương tự.
Đái tháo đường type 2: kháng insulin
Bệnh tiểu đường type 2 là phổ biến hơn so với type 1, chiếm khoảng 90% đến 95% của tất cả các bệnh nhân đái tháo đường. Trong hầu hết các trường hợp, sự khởi đầu của bệnh tiểu đường type 2 xảy ra sau tuổi 30, thường ở độ tuổi từ 50 đến 60.
Hệ tuần hoàn: chức năng chính
Khi dòng máu qua mô, ngay lập tức quay lại tim qua hệ tĩnh mạch. Tim đáp ứng tự động với sự tăng máu đến bằng việc bơm máu trở lại động mạch.
Vận chuyển CO2 trong máu: các dạng vận chuyển và hiệu ứng Hanldane
Một lượng lớn CO2 đó có vai trò tạo nên sự cân bằng axit-bazơ của các chất dịch cơ thể. Dưới điều kiện bình thường khi nghỉ ngơi, trong mỗi 100 ml máu trung bình có 4ml CO2 được vận chuyển từ mô tới phổi.
Điểm nhiệt chuẩn trong điều nhiệt cơ thể
Điểm nhiệt chuẩn tới hạn của vùng dưới đồi, mà ở đó ở dưới mức run cơ và trên mức bắt đầu đổ mồ hôi, được xác định chủ yếu bởi hoạt động của receptor càm nhận nhiệt trong vùng trước thị-trước dưới đồi.
Synap thần kinh trung ương: Receptor kích thích hay ức chế tại màng sau synap
Thay đổi về quá trình chuyển hóa nội bào ví dụ như làm tăng số lượng thụ thể màng kích thích hoặc giảm số lượng thụ thể màng ức chế cũng có thể kích thích hoạt động của tế bào thần kinh.
Điều hòa vận động: vai trò thoi cơ trong các vận động chủ động
Bất cứ khi nào phải thực hiện một động tác yêu cầu độ chính xác và tỉ mỉ, sự kích thích thích hợp từ cấu tạo lưới thân não lên các suốt cơ sẽ giúp duy trì tư thế của các khớp quan trọng, giúp thực hiện các động tác chi tiết một cách khéo léo.
Hấp thu các chất dinh dưỡng ở ruột non
Hấp thu carbohydrate, hấp thu glucose, hấp thu protein dưới dạng dipeptit, tripeptit hoặc axit amin, hấp thu chất béo và hấp thu các monosaccharide khác.
Tác dụng của hormon PTH lên nồng độ canxi và phosphate dịch ngoại bào
PTH có hai cơ chế để huy động canxi và phosphate từ xương. Một là cơ chế nhanh chóng thường bắt đầu trong vài phút và tăng dần trong vài giờ.
Thùy trước và thùy sau tuyến yên
Hai thùy tuyến yên có nguồn gốc khác nhau, thùy trước từ túi Rathke, là một vùng lõm vào của lớp thượng bì hầu họng, và thùy sau từ một mô thần kinh phát triển ra từ vùng dưới đồi.
Giải phẫu và chức năng của ốc tai
Ốc tai là một hệ thống các ống xoắn. Nó bao gồm 3 ống xoắn nằm cạnh nhau: (1) thang tiền đình, (2) thang giữa (ống ốc tai) và (3) thang nhĩ.
Cặp kích thích co cơ tim: chức năng của ion canxi và các ống ngang
Sức co bóp của cơ tim phụ thuộc rất lớn vào nống độ ion canxi trong dịch ngoại bào, một quả tim đặt trong một dung dịch không có canxi sẽ nhanh chóng ngừng đập.
hCG của thể vàng và quá trình ngăn chặn chu kỳ kinh nguyệt
Cho đến nay, chức năng quan trọng nhất của hCG là ngăn chặn sự co hồi của hoàng thể vào cuối chu kì kinh nguyệt, Thay vào đó, nó kích thích hoàng thể bài tiết progesterone và estrogen trong vài tháng sắp tới.
Thuốc và vận động viên thể thao
Một vài vận động viên đã được biết đến là chết trong các sự kiện thể thao vì sự tương tác giữa các thuốc đó và norepinephrine, epinephrine được giải phóng bởi hệ thống thần kinh giao cảm trong khi tập luyện.
Các yếu tố ảnh hưởng đến mức năng lượng trong cơ thể
Lượng năng lượng cần để thực hiện hoạt động thể chất chiếm 25% tổng năng lượng tiêu thụ của cơ thể, thay đổi nhiều theo từng người, tuỳ thuộc vào loại và lượng hoạt động được thực hiện.
Lưu lượng máu đến ruột chịu ảnh hưởng của hoạt động và tác nhân chuyển hóa ruột
Mặc dù các nguyên nhân chính xác gây tăng lượng máu khi đường tiêu hóa hoạt động vẫn chữa được biết rõ, nhưng một vài phần đã được làm sáng tỏ.
Tái lập chênh lệch nồng độ ion natri và kali sau khi điện thế hoạt động màng tế bào kết thúc và vấn đề của chuyển hóa năng lượng
Các ion natri đã khuếch tán vào bên trong các tế bào trong suốt quá trình điện thế hoạt động và các ion kali vừa khuếch tán ra ngoài phải được trả lại trạng thái ban đầu.
Bài tiết dịch tiêu hóa ruột bởi hang Lieberkuhn
Tế bào biểu mô nằm sâu trong các hang tuyến Lieberkuhn liên tục phân chia, và những tế bào mới di chuyển dọc theo màng đáy lên phía trên và ra ngoài tới đỉnh của các lông nhung.
Giải phẫu sinh lý của hệ giao cảm: hệ thần kinh tự chủ
Hệ thần kinh tự chủ cũng thường hoạt động thông qua các phản xạ nội tạng. Đó là, những tín hiệu cảm giác nội tại từ các cơ quan nội tạng có thể truyền tới các hạch tự chủ, thân não, hoặc vùng dưới đồi.
Hệ thống bạch huyết: vai trò chính trong điều hòa nồng độ protein, thể tích và áp suất dịch kẽ
Chức năng của hệ thống bạch huyết như một “cơ chế tràn” để nhận lại protein dư thừa và lượng nước thừa trong khoảng kẽ vào tuần hoàn chung.
Các tế bào tiết nhầy bề mặt dạ dày
Chất nhầy nhớt bao phủ biểu mô của dạ dày dưới dạng một lớp gel thường dày hơn 1 mm, do đó cung cấp lớp vỏ bọc bảo vệ quan trọng cho thành của dạ dày, cũng như góp phần bôi trơn để sự vận chuyển thức ăn được dễ dàng.
Cung lượng tim: là tổng máu tuần hoàn qua mô phụ thuộc vào tuần hoàn ngoại vi
Tổng lưu lượng máu của tuần hoàn ngoại vi chính là tuần hoàn tĩnh mạch, và tim hoạt động một cách tự động để bơm máu quay trở lại tuần hoàn chung của cơ thể.
Sự kích thích bài tiết acid dạ dày
Khi thức ăn có chứa protein tới vùng tận cùng hang vị, một vài protein từ thức ăn tác động kích thích tế bào tiết gastrin của tuyến môn vị gây nên sự giải phóng Gastrin vào máu để sau đó được vận chuyển đến các tế bào ECL ở dạ dày.
Kiểm soát chức năng tình dục nam giới bằng các hormone vùng dưới đồi và thùy trước tuyến yên
LH và FSH là các glycoprotein. Chúng phát huy tác dụng của mình tại tuyến đích ở tinh hoàn bằng cách kích hoạt chất dẫn truyền tin thứ hai là cAMP, từ đó kích hoạt hệ thống enzyme đặc biệt tron tế bào đích tương ứng.
Nhĩ thu và thất thu với các sóng: điện tâm đồ bình thường
Trước khi co bóp của cơ có thể xảy ra, sự khử cực phải lan truyền qua cơ. Sóng P xảy ra vào lúc bắt đầu của co bóp của tâm nhĩ, và phức bộ QRS của các sóng xảy ra vào lúc bắt đầu co bóp của tâm thất.