Hệ mạch cửa dưới đồi yên của thùy trước tuyến yên

2022-09-30 09:25 AM

Mạch máu đi vào các xoang đầu tiên đều đi qua giường mao mạch ở phần dưới vùng dưới đồi, dòng máu sau đó chảy qua các mạch cửa dưới đồi yên rồi đổ vào các xoang ở tuyến yên trước.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Thùy trước tuyến yên là một tuyến giàu mạch máu với rất nhiều xoang mạch bao quanh các tế bào tuyến. Hầu hết các mạch máu đi vào các xoang đầu tiên đều đi qua giường mao mạch ở phần dưới vùng dưới đồi. Dòng máu sau đó chảy qua các mạch cửa dưới đồi- yên rồi đổ vào các xoang ở tuyến yên trước. Phần thấp nhất của vùng dưới đồi, hay còn gọi là vùng lồi giữa, liên kết ở phía dưới với cuống yên. Các động mạch nhỏ đi vào vùng lồi giữa và sau đó tách thành các mạch đi trên bề mặt vùng này, rồi cùng tạo thành các mạch cửa dưới đồi - yên. Các mạch này đi qua cuống yên xuống cấp máu cho các xoang ở tuyến yên trước.

Cổng thông tin hạ đồi tuyến yên

Hình. Cổng thông tin hạ đồi - tuyến yên

Các hormone kích thích và ức chế của vùng dưới đồi được tiết vào vùng lồi giữa

Các neuron đặc biệt ở vùng dưới đồi tổng hợp và bài tiết các hormone kích thích và ức chế điều khiển sự bài tiết các hormone tuyến yên trước. Nguồn gốc các neuron này từ nhiều vị trí trên vùng dưới đồi và cho các sợi đi tới vùng lồi giữa và củ xám, một mô mở rộng từ vùng dưới đồi vào cuống yên.

Tận cùng của các sợi này khác với hầu hết các đầu tận cùng của hệ thần kinh trung ương, bởi vì chức năng của chúng không phải truyền tín hiệu từ một neuron đến một neuron khác mà bài tiết các hormone kích thích và ức chế vào các dịch mô. Những hormone này ngay lập tức đi vào hệ mạch cửa dưới đồi - tuyến yên và được vận chuyển trực tiếp đến các xoang ở tuyến yên trước.

Các hormone vùng dưới đồi kích thích hoặc ức chế sự bài tiết của tuyến yên trước

Chức năng của các hormone kích thích và ức chế của vùng dưới đồi là điều khiển sự bài tiết của tuyến yên trước. Đối với hầu hết các hormone tuyến yên trước, các hormone kích thích có vai trò quan trọng, nhưng với prolactin, hormone ức chế của vùng dưới đồi có vẻ như điều khiển nhiều hơn. Các hormone chính của vùng dưới đồi, bao gồm:

1. Hormone thyrotropin-releasing (TRH), gây bài tiết hormone kích thích tuyến giáp (TSH)

2. Hormone corticotropin-releasing (CRH), gây bài tiết hormone kích thích vỏ thượng thận (ACTH)

3. GHRH, gây bài tiết hormone tăng trưởng (GH), và hormone ức chế GH (GHIH), hay còn gọi là somatostatin, ức chế bài tiết GH

4. Hormone giải phóng hormone sinh dục (GnRH), gây bài tiét các hormone hướng sinh dục, hormone hoàng thể (LH) và hormone kích thích nang trứng (FSH)

5. Hormone ức chế prolatin (PIH), ức chế bài tiết prolactin

Các hormone ức chế và kích thích vùng hạ đồi

Bảng. Các hormone ức chế và kích thích vùng hạ đồi kiểm soát sự bài tiết ra của thùy trước tuyến yên

ACTH, adrenocorticotropic hormone; FSH, follicle-stimulating hormone; LH, luteinizing hormone; TSH, thyroid-stimulating hormone.

Các hormone dưới đồi còn lại gồm có hormone kích thích bài tiết prolactin và vài loại hormone khác ức chế bài tiết các hormone thùy trước yên. Các hormone quan trọng của vùng dưới đồi được mô tả chi tiết như những hệ nội tiết đặc biệt.

Các vị trí khác nhau ở vùng dưới đồi điều khiển sự bài tiết các hormone kích thích và ức chế của vùng này

Hầu hết các hormone dưới đồi đều được tiết ra ở các đầu tận dây thần kinh ở vùng lồi giữa trước khi được vận chuyển đến thùy yên trước. Một kích thích điện vào vùng này kích hoạt các đầu tận dây thần kinh và gây bài tiết tất cả các loại hormone dưới đồi. Tuy nhiên, thân các tế bào thần kinh có các đầu tận đi vào vùng lồi giữa được liên kết với các vùng gián đoạn khác của vùng dưới đồi hoặc liên kết chặt chẽ với các vùng ở nền não. Các vị trí khác nhau của các thân tế bào thần kinh tạo thành các hormone kích thích và ức chế khác nhau của vùng dưới đồi hiện vẫn chưa được biết rõ, nên có thể phần nhận định này là sai.

Bài viết cùng chuyên mục

Đo lưu lượng máu não và tác động của hoạt động não bộ trên lưu lượng máu não

Chứng minh tác động của hoạt động thần kinh tại chỗ trên lưu lượng máu não bằng cách chỉ ra sự gia tăng đặc hiệu lưu lượng máu vùng chẩm ghi lại trên não một con mèo khi chiếu ánh sáng mạnh vào mắt nó trong một phút rưỡi.

Nhĩ thu và thất thu với các sóng: điện tâm đồ bình thường

Trước khi co bóp của cơ có thể xảy ra, sự khử cực phải lan truyền qua cơ. Sóng P xảy ra vào lúc bắt đầu của co bóp của tâm nhĩ, và phức bộ QRS của các sóng xảy ra vào lúc bắt đầu co bóp của tâm thất.

Điện thế hoạt động trong cơ tim

Trong cơ tim, điện thế hoạt động được tạo ra do mở kênh natri nhanh kích hoạt điện thế và một tập hợp hoàn toàn khác các kênh canxi typ L, chúng được gọi là kênh canxi - natri.

Mối quan hệ giữa huyết áp dòng chảy và lực cản

Dòng máu qua mạch được quyết định bởi chênh lệch áp lực máu giữa 2 đầu của đoạn mạch, và sức cản chống lại dòng máu qua mạch, hay còn được gọi là sức cản thành mạch.

Hệ thống bạch huyết: vai trò chính trong điều hòa nồng độ protein, thể tích và áp suất dịch kẽ

Chức năng của hệ thống bạch huyết như một “cơ chế tràn” để nhận lại protein dư thừa và lượng nước thừa trong khoảng kẽ vào tuần hoàn chung.

Khúc xạ ánh sáng: nguyên lý quang học nhãn khoa

Chỉ số khúc xạ của không khí là 1.00. Do đó, nếu ánh sáng đi trong một loại thủy tinh với tốc độ là 200,000km/s thì chỉ số khúc xạ của loại thủy tinh này 300,000 chia cho 200,000, hay 1.50.

Hệ thống Purkinje: vai trò gây ra co bóp đồng bộ của cơ tâm thất

Khi xung động đi đến tận cùng của các sợi Purkinje, nó được truyền qua khối cơ của tâm thất bởi chính các sợi cơ của tâm thất. Vận tốc dẫn truyền bây giờ chỉ 0,3 - 0,5m/s, bằng 1/6 trong các sợi Purkinje.

Sinh lý nơ ron thần kinh

Thân nơ ron có chức năng dinh dưỡng cho nơ ron. Ngoài ra, thân nơ ron có thể là nơi phát sinh xung động thần kinh và cũng có thể là nơi tiếp nhận xung động thần kinh từ nơi khác truyền đến nơ ron.

Vỏ não thị giác: nguồn gốc và chức năng

Vỏ não thị giác nằm chủ yếu trên vùng trung tâm của thùy chẩm. Giống như các vùng chi phối khác trên vỏ não của các hệ thống giác quan khác, vỏ não thị giác được chia thành một vỏ não thị giác sơ cấp và các vùng vỏ não thị giác thứ cấp.

Cung lượng tim: đánh giá qua lưu lượng kế điện tử hoặc siêu âm

Lưu lượng máu sẽ được tính thông qua tốc độ vận chuyển máu qua động mạch chủ, diện tích mặt cắt ngang động mạch chủ được đánh giá thông qua đo đường kính thành mạch dưới hướng dẫn siêu âm.

Sợi thần kinh: sự tương quan về trạng thái

Một số tế bào thần kinh trong hệ thần kinh trung ương hoạt động liên tục vì ngay cả trạng thái kích thích bình thường cũng trên ngưỡng cho phép.

Điều hòa bài tiết cortisol ở vỏ thượng thận do tuyến yên

ACTH kích thích kiểm soát bài tiết của vỏ thượng thận là kích hoạt các protein enzyme kinase A, làm chuyển hóa ban đầu của cholesterol thành Pregnenolone.

Sự bài tiết ở ruột non và chất nhầy của tuyến brunner ở tá tràng

Hoạt động của chất nhày được bài tiết bởi tuyến Brunner là để bảo vệ thành tá tràng khỏi sự phân giải của dịch vị chứa acid được đưa đến từ dạ dày.

Vai trò của O2 trong điều hòa hô hấp: điều hòa hô hấp bởi thụ thể ngoại vi

Oxygen không có ảnh hưởng trực tiếp tới trung tâm hô hấp của não trong việc điều hòa hô hấp. Thay vào đó, nó tác động gần như hoàn toàn lên các hóa thụ thể ở ngoại vi nằm trong động mạch cảnh và thân động mạch chủ.

Đường cong hoạt động của tâm thất

Khi tâm thất được làm đầy đáp ứng với sự tăng cao áp suất tâm nhĩ, mỗi thể tích tâm thất và sức co cơ tim tăng lên, làm cho tim tăng bơm máu vào động mạch.

Thành phần dịch trong cơ thể người

Ở người trưởng thành, tổng lượng dịch trong cơ thể khoảng 42L, chiếm 60% trọng lượng. Tỉ lệ này còn phụ thuộc vào độ tuổi, giới tính và thể trạng từng người.

Hormone tăng trưởng (GH) gây các ảnh hưởng lên chuyển hóa

Hormone tăng trưởng GH tác động trên sự phát triển cơ thể, tác dụng trên phức hợp chuyển hóa, gồm tăng tạo protein, tăng huy động các acid béo từ mô mỡ, làm giảm sử dụng glucose toàn cơ thể.

Kiểm soát huyết áp động mạch: angiotensin II làm cho thận giữ muối và nước

Angiotensin II là một trong những chất kích thích bài tiết aldosterone mạnh bởi các tuyến thượng thận, như chúng ta sẽ thảo luận liên quan đến điều hòa thể dịch và liên quan đến chức năng tuyến thượng thận.

Tác dụng sinh lý của vitamin D

Thụ thể vitamin D có mặt trong hầu hết các tế bào trong cơ thể và nằm chủ yếu trong nhân tế bào. Tương tự như các thụ thể steroid và hormone tuyến giáp, các thụ thể vitamin D có vùng bắt hocmon và vị trí bắt ở DNA.

ACTH liên quan với hormon kích thích tế bào sắc tố, Lipotropin và Endorphin

Khi mức bài tiết ACTH cao, có thể xảy ra ở những người bệnh Addison, hình thành một số các hormon khác có nguồn gốc POMC cũng có thể được tăng.

Tinh trùng và sinh sản nam

Đôi khi một nam giới có số lượng tinh trùng bình thường nhưng vẫn bị vô sinh. Khi tình trạng này xảy ra, rất nhiều, thậm trí là một nửa số tinh trùng của người này có hình dạng bất thường, có hai đầu, bất thường đầu hay bất thường thân.

Sự hấp thu thủy dịch của mắt

Sau khi thủy dịch được hình thành từ các mỏm mi, nó sẽ lưu thông, thông qua lỗ đồng tử đi vào tiền phòng của mắt sau đó chảy vào góc giữa giác mạc và mống mắt.

Sự thẩm thấu của nhau thai và màng khuếch tán

Trong những tháng đầu của thai kì, màng nhau thai vẫn còn dày vì nó không được phát triển đầy đủ. Do đó tính thấm của nó thấp. Hơn nữa diện tích bề mặt nhỏ vì nhau thai chưa phát triển đáng kể. Nên tổng độ khuếch tán là rất nhỏ ở đầu tiên.

Chức năng thính giác của vỏ não: cơ chế thính giác trung ương

Mỗi neuron riêng lẻ trong vỏ não thính giác đáp ứng hẹp hơn nhiều so với neuron trong ốc tai và nhân chuyển tiếp ở thân não. Màng nền gần nền ốc tai được kích thích bởi mọi tần số âm thanh, và trong nhân ốc tai dải âm thanh giống vậy được tìm thấy.

Hoạt động tình dục của phụ nữ

Tính chất của sự kích thích tại chỗ diễn ra nhiều hoặc ít hơn so với nam giới bởi vì xoa bóp và những loại kích thích khác như âm hộ, âm đạo hay một số vùng ở đáy chậu có thể tạo ra khoái cảm tình dục. Vị trí đầu âm vật là nơi rất nhạy cảm với sự kích thích.