Đo huyết áp tâm thu và tâm trương trên lâm sàng

2020-08-11 03:45 PM

Có sự tăng nhẹ trong huyết áp tâm thu thường xảy ra sau tuổi 60. Sự tăng này nguyên nhân do giảm khả năng co giãn hay trở nên cứng hơn, chủ yếu nguyên nhân do xơ vữa.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Không có tính thực hành nếu sử dụng bản ghi huyết áp thứ mà yêu cầu kim lồng vào bên trong lòng mạch để đo huyết áp động mạch hàng ngày trên người, mặc dù cách này có thể sử dụng khi cần thiết trong các nghiên cứu đặc biệt. Thay vào đó, các chứng minh lâm sàng đo được huyết áp tâm thu và tâm trương bằng cách gián tiếp, thường thường sử dụng phương pháp nghe mạch

Phương pháp nghe mạch

Hình mô tả phương pháp nghe mạch để thu huyết áp động mạch thời kỳ tâm thu và tâm trương. Một ống nghe được đặt vào đường đi của động mạch và băng huyết áp được quấn quanh phần dưới của cánh tay. Miễn là băgn vẫn tiếp tục ép chặt vào cánh tay với một lực bé để có thể ép cào động mạch cánh tay đến khi không nghe thấy mạch đập. Tuy nhiên, khi áp lực băng đủ lớn gần với áp lực của nhịp đập của mạch vào động mạch cánh tay thì sẽ nghe thấy một tiếng đập. Tiếng đập này gọi là tiếng đập Korotkoff, được đặt tên sau khi Nikolai korotkoff, nhà vật lí học người Nga mô tả vào năm 1905.

Tiếng đập Kotorkoff được cho là tạo nên bởi dòng máu phụt thành tia khi đi qua đoạn hẹp của mạch máu và bởi sự rung lên của thành mạch. Sự phụt này do dòng chuyển động hỗn loạn của dòng máu ở xa băng đo, và sự chuyển động hỗn loạn này gây nên sự rung lắc nghe được qua ống nghe.

Phương pháp đo huyết áp tâm thu, tâm trương trên lâm sàng

Hình. Phương pháp đo huyết áp tâm thu, tâm trương trên lâm sàng

Đo huyết áp bằng phương pháp nghe này thì huyết áp đầu tiên thu được tại băng huyết áp sẽ là huyết áp tâm thu. Miễn là áp lực của băng đo cao hơn so với huyết áp tâm thu, động mạch cánh tay vẫn sụt giảm vì vậy không có tia máu phụt xuống các động mạch phía dưới thấp hơn trong suốt quá trình vòng huyết áp. Vì vậy, không có tiếng Korotkoff nào nghe được ở các động mạch phía dưới. Nhưng sau đó, áp lực băng đo dần dần giảm xuống. Vừa ngay khi áp lực băng đo xuống tới huyết áp tâm thu (điểm B).

Sự thay đổi huyết áp tâm thu, tâm trương, trung bình theo tuổi

Hình. Sự thay đổi huyết áp tâm thu, tâm trương, trung bình theo tuổi. Đường viền quanh chỉ giới hạn quanh giá trị bình thường.

Huyết áp tâm trương đo bằng cách đặt catheter lòng mạch. Khi áp lực băng đo giảm xuống ít hơn vài mmHg nữa, động mạch không còn bị thắt chặt trong thời kì tâm trương, điều đó có nghĩa rằng các yếu tố cơ bản làm nên tiếng đập (tiếng của dòng máu chảy qua đoạn mạch co thắt) không còn xuất hiện. Vì vậy, tiếng đập hoàn toàn không còn xuất hiện. Các nhà lâm sàng tin rằng huyết áp mà khi tiếng đập Korotkoff  hoàn toàn biến mất có thể được xem như huyết áp trong thời kỳ tâm trương, ngoại trừ trong trường hợp sự biến mất của tiếng đập được xác nhận theo cách không đáng tin cậy bởi vì tiếng đập có thể vẫn còn nghe thấy thậm chí sau khi xả hết hoàn toàn hơi trong băng huyết áp.

Phương pháp nghe để xác định huyết áp tâm thu và tâm trương này thì không chính xác tuyệt đối, tuy nhiên, nó cho giá trị trong vòng 10% của cách đo bằng gắn catheter trực tiếp vào trong lòng mạch.

Trị số huyết áp động mạch bình thường đươc đo bằng phương pháp nghe mạch. Hình mô tả giá trị trung bình của huyết áp tâm thu và tâm trương theo tuổi. Huyết áp thì tăng lên theo độ tuổi do ảnh hưởng của tuổi lên cơ chế kiểm soát huyết áp. Thận là yếu tố cơ bản ban đầu trong kiểm soát huyết áp kéo dài,và thận cũng được biết đến sự thay đổi rõ rệt về chức năng, đặc biệt là sau tuổi 50.

Có sự tăng nhẹ trong huyết áp tâm thu thường xảy ra sau tuổi 60. Sự tăng này nguyên nhân do giảm khả năng co giãn hay trở nên cứng hơn, chủ yếu nguyên nhân do xơ vữa. Hậu quả cuối cùng là tăng huyết áp tâm thu với sự tăng lên của hiệu số huyết áp, như đã giải thích ở phía trên.

Ý nghĩa của huyết áp động mạch

Huyết áp động mạch là trung bình của áp lực lên động mạch đo trên từng mili giây qua mili giây trong một khoảng thời gian. Nó được sử dụng trong kỳ tâm thu hơn thì tâm trương, vì vậy, huyết áp động mạch vẫn gần với huyết áp tâm trương hơn so với tâm trương trong suốt chu kỳ hoạt động của tim. Giá trị của huyết áp động mạch được xác định bằng khoảng 60% giá trị huyết áp tâm trương và 40% giá trị huyết áp tâm thu. Hình chỉ ra trằng giá trị huyết áp (hình màu xanh dương) ở tất cả các lứa tuổi thì gần với huyết áp tâm trương hơn so với huyết áp tâm thu. Tuy nhiên, khi nhịp tim quá nhanh, thời kỳ tâm trương bị ngắn lại và trị số huyết áp thì càng gần hơn so với giá trị huyết áp trung bình.

Bài viết cùng chuyên mục

Lưu lượng máu qua phổi và phân phối của nó: điều chỉnh phân phối lưu lượng máu phổi

Lưu lượng máu qua phổi cơ bản bằng cung lượng tim. Do đó, các yếu tố kiểm soát chủ yếu cung lượng tim là yếu tố ngoại vi cũng như kiểm soát lưu lượng máu phổi.

Tác dụng feedback của hormon giáp làm giảm bài tiết TSH của thùy trước tuyến yên

Để đạt được mức độ bài tiết lý tưởng, cơ chế feedback cụ thể tác dụng thông qua tuyến dưới đồi và thùy trước tuyến yên để kiểm soát tốc độ bài tiết của tuyến giáp.

Tín hiệu thần kinh: sự hội tụ của các tín hiệu từ các sợi đến khác nhau

Sự hội tụ cho phép tổng hợp thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, và đáp ứng đưa đến là một hiệu quả được tổng hợp từ tất cả các loại thông tin khác nhau.

Sự tạo thành ảnh của thấu kính hội tụ: nguyên lý quang học nhãn khoa

Trong thực tế, bất cứ đồ vật gì đặt ở trước thấu kính, đều có thể xem như một nguồn phát ánh sáng. Một vài điểm sáng mạnh và một vài điểm sáng yếu với rất nhiều màu sắc.

Giải phóng hormon thyroxine và triiodothyronine từ tuyến giáp

Trong quá trình biến đổi phân tử thyroglobulin để giải phóng thyroxine và triiodothyronine, các tyrosine được iod hóa này cũng được giải thoát từ phân tử thyroglobulin, chúng không được bài tiết vào máu.

Động tác bước và đi bộ: phản xạ tư thế

Các thông tin cảm giác từ bàn chân hay cảm giác tư thế từ các khớp đóng một vai trò quan trọng trong việc điều khiển áp lực bàn chân và bước đi liên tục.

Trạm thần kinh: sự kéo dài tín hiệu thần kinh bằng trạm thần kinh “Sự kích ứng tồn lưu”

Khi các synap kích thích trên bề mặt của sợi nhánh hay thân của một nơ-ron, một điện thế sau synap tạo ra trong tế bào thần kinh và kéo dài trong nhiều mili giây, đặc biệt là khi có mặt một số chất dẫn truyền ở synap hoạt hóa kéo dài.

Ép tim ngoài lồng ngực: khử rung thất

Một công nghệ ép tim không cần mở lồng ngực là ép theo nhịp trên thành ngực kèm theo thông khí nhân tao. Quá trình này, sau đó là khử rung bằng điện được gọi là hồi sức tim phổi.

Hệ thống đệm hemoglobin cho PO2 ở mô

O2 có thể thay đổi đáng kể, từ 60 đến hơn 500 mm Hg, nhưng PO2 trong các mô ngoại vi không thay đổi nhiều hơn vài mmHg so với bình thường, điều này đã chứng minh rõ vai trò "đệm oxy" ở mô của hệ thống hemoglobin trong máu.

Hấp thu nước và các ion ở ruột non

Nước vận chuyển qua màng tế bào ruột bằng cách khuếch tán, sự khuếch tán này thường tuân theo áp lực thẩm thấu, khi nhũ trấp đủ loãng, nước được hấp thu qua niêm mạc ruột vào máu hầu như hoàn toàn bằng áp lực thẩm thấu.

Dẫn truyền xung động từ tận cùng thần kinh tới sợi cơ vân: Khớp thần kinh cơ

Điện thế hoạt động bắt đầu lan truyền trong các sợi cơ vân bởi các xung thần kinh đi theo cả hai hướng về phía tận cùng sợi cơ.

Vận chuyển thụ động qua màng bào tương

Khuếch tán đơn giản, là hình thức khuếch tán trong đó các phân tử vật chất được vận chuyển, từ nơi nồng độ cao đến nồng độ thấp.

Trao đổi canxi giữa xương và dịch ngoại bào

Một phần nhỏ dạng canxi dễ trao đổi này cũng là dạng canxi được tìm thấy trong tất cả các tế bào mô, đặc biệt là trong các tế bào có tính thấm cao như gan và đường tiêu hóa.

Phospholipids và Cholesterol trong cơ thể

Phospholipid được chi phối bởi yếu tố điều hòa kiểm soát tổng thể quá trình chuyển hóa chất béo. Cholesterol có ở trong khẩu phần ăn bình thường và nó có thể được hấp thu chậm từ hệ thống ruột vào các bạch huyết ruột

Hormone tăng trưởng (GH) thực hiện các chức năng thông qua các chất trung gian somatomedin

GH kích thích gan tạo ra các protein phân tử nhỏ gọi là somatomedin tác dụng mạnh làm tăng mọi phương diện phát triển của xương, một số tác dụng của somatomedin lên sự phát triển tương tự như các tác dụng của insulin lên sự phát triển.

Trạm thần kinh: sự phân kỳ của các tín hiệu đi qua

Sự phân kỳ khuếch đại hiểu đơn giản là các tín hiệu đầu vào lan truyền đến một số lượng nơ-ron lớn hơn khi nó đi qua các cấp nơ-ron liên tiếp trong con đường của nó.

Vùng vận động bổ xung: chức năng vận động của vỏ não và thân não

Vùng vận động bổ sung có bản đồ hình chiếu khác nữa để chi phối chức năng vận động. Vùng này nằm chủ yếu ở khe dọc giữa nhưng kéo dài vài cm lên trên vùng vỏ não trán trên.

Xung lực của động mạch

Áp lực bơm máu ở góc động mạch chủ đưuọc biểu diễn trên hình. Với một người lớn trẻ khỏe, huyết áp ở đầu mỗi nhịp đập sẽ gọi là huyết áp tâm thu, vào khoảng 120mmHg.

Hiệu suất hoạt động trong suốt sự co cơ

Năng lượng cần thiết để thực hiện hoạt động được bắt nguồn từ các phản ứng hóa học trong các tế bào cơ trong khi co, như mô tả trong các phần sau.

Thị lực: chức năng của thị giác

Thị lực người thường có thể phân biệt được 2 điểm các nhau khoảng 25 giây cung. Nghĩa là khi các tia sáng đi từ hai nguồn riêng đi đến mắt tạo một góc giữa chúng tối thiểu là 25 giây, chúng sẽ được xem là hai điểm riêng biệt.

Nồng độ canxi và phosphate dịch ngoại bào liên quan với xương

Tinh thể xương lắng đọng trên chất căn bản xương là hỗn hợp chính của calcium và phosphate. Công thức chủ yếu của muối tinh thể, được biết đến như là hydroxyapatit.

Kiểm soát huyết áp động mạch: angiotensin II làm cho thận giữ muối và nước

Angiotensin II là một trong những chất kích thích bài tiết aldosterone mạnh bởi các tuyến thượng thận, như chúng ta sẽ thảo luận liên quan đến điều hòa thể dịch và liên quan đến chức năng tuyến thượng thận.

Sự lắng đọng và hấp thu canxi và phosphate ở xương cân bằng với dịch ngoại bào

Mặc dù cơ chế làm lắng đọng các muối canxi ở osteoid chưa được hiểu đầy đủ, sự kiểm soát của quá trình này dường như phụ thuộc phần lớn vào pyrophosphate, chất làm ức chế tạo thành tinh thể hydroxyapatite và lắng canxi của xương.

Cấu tạo chung của hệ thần kinh: thần kinh trung ương và sự nhận cảm đáp ứng

Một đặc tính của hầu hết các sợi thần kinh là các tín hiệu dẫn truyền thường chỉ đi theo một hướng: từ sợi trục của sợi thần kinh phía trước tới sợi gai của sợi phía sau.

Đau thắt ngực trong bệnh mạch vành

Các chất có tính axit, chẳng hạn như axit lactic hoặc các sản phẩm làm giảm đau khác, chẳng hạn như histamine, kinin hoặc các enzym phân giải protein của tế bào, không bị loại bỏ đủ nhanh bởi dòng máu mạch vành di chuyển chậm.