- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Cung lượng tim: là tổng máu tuần hoàn qua mô phụ thuộc vào tuần hoàn ngoại vi
Cung lượng tim: là tổng máu tuần hoàn qua mô phụ thuộc vào tuần hoàn ngoại vi
Tổng lưu lượng máu của tuần hoàn ngoại vi chính là tuần hoàn tĩnh mạch, và tim hoạt động một cách tự động để bơm máu quay trở lại tuần hoàn chung của cơ thể.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Cung lượng tim: là thể tích máu được tim bơm vào động mạch chủ mỗi phút, đó cũng đồng thời là thể tích máu lưu thông trong vòng tuần hoàn chung của cơ thể. Cung lượng tim là một trong những yếu tố quan trọng của vòng tuần hoàn bởi nó đánh giá tổng lượng máu cung cấp cho tất cả các mô trong cơ thể.
Tuần hoàn tĩnh mạch: là thể tích máu ngoại vi được đưa về tim qua tâm nhĩ mỗi phút. Tuần hoàn tĩnh mạch và cung lượng tim phải cân bằng nhau chỉ trừ trong một vài nhịp đập khi máu đổ về và tống đi tạm thời tại tim và phổi.
Tuần hoàn tĩnh mạch là tổng tất cả các dòng máu lấy từ các mô cơ thể thông qua hệ tuần hoàn ngoại vi.
Vì vậy sự thay đổi cung lượng tim cũng dẫn đến thay đổi tuần hoàn ngoại vi.
Quy luật của thay đổi tuần hoàn ngoại vi, ở hầu hết các mô, tuần hoàn máu tăng chủ yếu phụ thuộc vào phần trăm chuyển hóa từng mô. Ví dụ: tuần hoàn ngoại vi tăng khi nhu cầu O2 của mô tăng, với các điều kiện thể lực khác nhau. Chú ý rằng với mỗi cường độ hoạt động thể lực nhất định .Mức tiêu thụ CO2 và cung lượng tim tăng tỉ lệ thuận với nhau.
Tóm lại, cung lượng tim xác định bằng tổng hòa các yếu tố điều hòa tuần hoàn ngoại vi. Tổng lưu lượng máu của tuần hoàn ngoại vi chính là tuần hoàn tĩnh mạch, và tim hoạt động một cách tự động để bơm máu quay trở lại tuần hoàn chung của cơ thể.
Hình. Cung lượng tim bằng tuần hoàn tĩnh mạch và cũng là tổng lượng máu ngoại vi qua mô, cơ quan.
Hình. Hoạt động thể lực làm tăng cung lượng tim (đường đỏ) và tăng nhu cầu oxy (đường xanh).
Cung lượng tim tỉ lệ nghịch với sức cản ngoại vi khi huyết áp động mạch không đổi
Một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kiểm soát cung lượng tim: sự thay đổi cung lượng tim tỉ lệ nghịch với sức cản ngoại vi khi huyết áp không đổi. Chú ý rằng khi sức cản ngoại vi bình thường (ở mức 100%) cung lượng tim cũng không thay đổi, khi tim hoạt động hiệu quả tốt hơn, lượng tống máu nhiều hơn bình thường và ngược lại.
Hình. Ảnh hưởng mãn tính của sức cản ngoại vi trên cung lượng tim, cho thấy mối quan hệ qua lại giữa tổng sức cản ngoại vi và cung lượng tim. AV, nhĩ thất.
Khi sức cản ngoại vi tăng cung cung lượng tim giảm và ngược lại. Hiện tượng này có thể giải thích thông qua quy luật Ohm.
Cung lượng tim = (huyết áp động mạch)/(tổng sức cản ngoại vi)
Vì vậy, mỗi khi sức cản tuần hoàn ngoai vi thay đổi với các yếu tố chức năng khác hằng định thì cung lượng tim thay đổi tỉ lệ nghịch tương ứng.
Tim có thể trở thành các yếu tố ức chế cung lượng tim
Lượng máu do tim có thể bơm được biểu thị thông qua thể tích được gọi là đường cong cung lượng tim sinh lý.
Ở hình biểu diễn cung lượng tim mỗi phút ở các mức áp lực tâm nhĩ phải khác nhau. Đó cũng là một dạng đường cong chức năng tim. Chú ý rằng cung lượng tim có thể đạt mức 13lít/ phút gấp 2,5 lần cung lượng tim sinh lý 5 lít/ phút vẫn được coi là bình thường. Điều đó có nghĩa với một người khỏe mạnh tim hoạt động ở mức không chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố kích thích, có thể bơm 1 lượng máu vào tuần hoàn chung gấp 2,5 lần bình thường trước khi tim trở thành yếu tố giới hạn cung lượng tim.
Hình còn chỉ ra các đường cong cung lượng tim khi tim hoạt động không sinh lý.
Hình. Đường cong cung lượng tim bình thường, và khi tăng, giảm hiệu quả tống máu của tim.
Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động hiệu quả của tim
Hai yếu tố làm tim bơm máu tốt hơn (1) kích thích thần kinh (2) sự giãn nở các dẫn cơ tim.
Kích thích thần kinh làm tăng nhịp tim
Kích thích giao cảm và ức chế phó giao cảm là hai yếu tố làm tăng hiệu quả hoạt động của tim (1) tăng nhịp tim, ở người trẻ nhịp tim bình thường là 72 nhịp/phút có thể tăng đến 180- 200 nhịp/phút (2) tăng lực co cơ tim (có thể gấp 2 lần lực co tim bình thường). Sự kết hợp của hai yếu tố, một kích thích thần kinh cực đại làm cung lượng tim đạt đỉnh gấp 2 lần bình thường Ở đường cong cung lượng tim cao nhất với 25l/phút.
Sự giãn nở tim làm tăng hiệu quả bơm máu
Sự giãn nở tim trong một thời gian dài có thể tăng hiệu quả tim, nhưng không hoạt động quá sức vì có thể ảnh hưởng đến chức năng tim vì sự giãn nở làm sợi cơ tim tăng khối lượng và lực co,tương tự tập luyện thể lực giúp giãn nở cơ. Ví dụ với vận động viên maratông,tim có thể to hơn 50-70% so với bình thường. Yếu tố này co thể tăng đỉnh cung lượng tim lên 60 -100% và do đó có thể giúp tim có thể tống máu nhiều hơn bình thường.
Khi kết hợp kích thích thần kinh với phì đại cơ tim, ở các vận động viên điền kinh thì tim có thể bơm một thể tích máu từ 30 đến 40 L/phút, gấp 2,5 lần so với người bình thường. Tăng cung lượng tim cũng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng thời gian thi đấu của các vận động viên.
Yếu tố làm giảm hiệu suất hoạt động của tim
Mọi yếu tố làm giảm tổng lượng máu của tim đều gây ra giảm hiệu suất tim. Trong đó:
Tăng áp lực động mạch làm tim cần một lực lớn hơn tống máu, như tăng huyết áp ác tính.
Ức chế, kích thích thần kinh.
Yếu tố bênh học gây bất thường nhịp tim.
Nhồi máu cơ tim.
Bệnh van tim.
Bệnh tim bẩm sinh.
Viêm cơ tim.
Thiếu máu cơ tim.
Bài viết cùng chuyên mục
Giải phẫu sinh lý của bài tiết dịch mật
Thành phần của dịch mật ban đầu khi được bài tiết bởi gan và sau khi được cô đặc trong túi mật. Phần lớn chất được bài tiết bên trong dịch mật là muối mật, chiếm khoảng một nửa trong tổng số các chất được hòa tan trong dịch mật.
Rung thất: cơ chế phản ứng dây truyền rối loạn nhịp tim
Vòng đầu tiên của kích điện tim gây ra sóng khử cực lan mọi hướng, khiến cho tất cả cơ tim đều ở trạng thái trơ. Sau 25s. một phần của khối cơ này thoát khỏi tình trạng trơ.
Ảnh hưởng của ion kali và canxi trong hoạt động của tim
Khi có nồng độ cao kali trong dịch ngoại bào sẽ một phần khử cực màng tế bào, làm điện thế màng bớt âm. Khi điện thế màng giảm, cường độ điện thế hoạt đọng cũng giảm, làm cho sự co bóp cơ tim yếu dần.
Các vùng các lớp và chức năng của vỏ não: cảm giác thân thể
Vùng cảm giác thân thể I nhạy cảm hơn và quan trọng hơn nhiều so với vùng cảm giác bản thể II đến mức trong thực tế, khái niệm “vỏ não cảm giác thân thể” hầu như luôn luôn có ý chỉ vùng I.
Thành phần của hệ renin angiotensin
Khi huyết áp động mạch giảm, phản ứng nội tại trong thận tạo ra nhiều phân tử prorenin trong các tế bào cận cầu thận để phân cắt và giải phóng renin.
Đái tháo đường type 1: thiếu hụt sản xuất insulin
Tổn thương tế bào beta đảo tụy hoặc các bệnh làm suy yếu sản xuất insulin có thể dẫn đến bệnh tiểu đường type 1. Nhiễm virus hoặc các rối loạn tự miễn có thể tham gia vào việc phá hủy tế bào beta.
Sóng vận mạch huyết áp: dao động của hệ thống điều chỉnh phản xạ huyết áp
Khoảng thời gian cho mỗi chu kỳ là 26 giây đối với chó đã gây mê, 7-10 giây ở người không gây mê. Sóng này được gọi là sóng vận mạch hay sóng Mayer.
Báo động hoặc phản ứng stress của hệ thần kinh giao cảm
Hệ giao cảm cũng đặc biệt được kích hoạt mạnh mẽ trong nhiều trạng thái cảm xúc. Ví dụ, trong trạng thái giận dữ, vùng dưới đồi sẽ bị kích thích, các tín hiệu sẽ được truyền xuống qua hệ thống lưới của thân não.
Cấu trúc hóa học và sự chuyển hóa của các hormone
Cấu trúc hóa học và sự chuyển hóa của các hormone protein và polypeptide, các steroid, dẫn xuất của amino acid tyrosin.
Đại cương sinh lý thần kinh cao cấp
Người và các loài động vật cao cấp có một số hành vi và thái độ đáp ứng với hoàn cảnh mà các quy luật sinh lý thông thường không giải thích được. Ở ngườiì khi vui thì ăn ngon miệng, khi buồn thì chán không muốn ăn, mặc dầu đói.
Xác định hướng đến của âm thanh: cơ chế thính giác trung ương
Sự định hướng không gian của các tín hiệu sau đó sẽ được truyền tới vỏ não thính giác, nơi mà hướng của âm thanh được xác định bởi vị trí các tế bào thần kinh bị kích thích tối đa.
Trở kháng thành mạch với dòng máu của hệ tuần hoàn
Trở kháng là sự cản trở với dòng máu trong mạch, không thể đo bằng phương tiện trực tiếp, chỉ được tính từ những công thức, phép đo của dòng máu và sự chênh lệch áp lực giữa 2 điểm trên mạch.
Phức bộ QRS: nguyên nhân gây ra điện thế bất thường
Một trong các nguyên nhân gây giảm điện thế của phức bộ QRS trên điện tâm đồ là các ổ nhồi máu cơ tim cũ gây giảm khối lượng cơ tim, làm cho sóng khử cực đi qua tâm thất chậm và ngăn các vùng của tim khử cực cùng 1 lúc.
Trí nhớ dài hạn của con người
Không có một ranh giới rõ ràng giữa loại kéo dài hơn của trí nhớ trung hạn và trí nhớ dài hạn thực sự. Sự khác biệt chỉ là một mức độ. Mặc dù, trí nhớ dài hạn thông thường được cho rằng là kết quả của sự thay đổi cấu trúc.
Các tế bào tiết nhầy bề mặt dạ dày
Chất nhầy nhớt bao phủ biểu mô của dạ dày dưới dạng một lớp gel thường dày hơn 1 mm, do đó cung cấp lớp vỏ bọc bảo vệ quan trọng cho thành của dạ dày, cũng như góp phần bôi trơn để sự vận chuyển thức ăn được dễ dàng.
Các van tim ngăn sự quay lại của dòng máu kỳ tâm thu
Đặc điểm giải phẫu của van động mạch chủ và van động mạch phổi phải được cấu tạo với một mô sợi đặc biệt mạnh mẽ nhưng cũng phải rất mềm dẻo để chịu đựng được thêm gánh nặng vật lý.
Hệ thống co mạch giao cảm: sự kiểm soát của nó bởi hệ thống thần kinh trung ương
Trung tâm vận mạch ở não dẫn truyền tín hiệu phó giao cảm qua dây X đến tim và tín hiệu giao cảm qua tủy sống và sợi giao cảm ngoại vi đến hầu như tất cả động mạch, tiểu động mạch và tĩnh mạch của cơ thể.
Chức năng sinh dục nam bất thường
Rối loạn chức năng cương dương, hay gọi là “bất lực”, đặc trưng bởi sự mất khả năng duy trì độ cương cứng của dương vật để thực hiện quá trình giao hợp phù hợp.
Calcitonin và canxi huyết
Sự kích thích chính tiết calcitonin là việc tăng nồng độ ion canxi dịch ngoai bào. Ngược lại, sự tiết PTH được kích thích bởi nồng độ canxi giảm.
Đo điện thế màng tế bào
Để tạo ra một điện thế âm bên trong màng, chính các ion dương chỉ đủ phát triển lớp điện thế lưỡng cực ở màng phải được vận chuyển ra phía ngoài.
Chất co mạch: kiểm soát thể dịch của tuần hoàn
Khi hệ thống thần kinh giao cảm bị kích thích, tận cùng của hệ thống thần kinh giao cảm ở các mô riêng biệt giải phóng ra norepinephrine, kích thích tim và co tĩnh mạch và tiểu động mạch.
Những chức năng đặc biệt ở trẻ sơ sinh
Đặc trưng quan trọng của trẻ sơ sinh là tính không ổn định của hệ thống kiểm soát hormone và thần kinh khác nhau, một phần là do sự phát triển chưa đầy đủ của các cơ quan và hệ thống kiểm soát chưa được thích nghi.
Thông khí phế nang: khoảng chết và tác động của chúng
Trong thì thở ra, khí trong khoảng chết được thở ra đầu tiên, trước khi bất kỳ khí từ phế nang. Do đó, khoảng chết không thuận lợi cho loại bỏ khí thở ra từ phổi.
Điều hòa bài tiết cortisol ở vỏ thượng thận do tuyến yên
ACTH kích thích kiểm soát bài tiết của vỏ thượng thận là kích hoạt các protein enzyme kinase A, làm chuyển hóa ban đầu của cholesterol thành Pregnenolone.
Tăng huyết áp: gây ra bởi sự kết hợp của tăng tải khối lượng và co mạch
Tăng huyết áp di truyền tự phát đã được quan sát thấy ở một số chủng động vật, bao gồm các chủng chuột, thỏ và ít nhất một chủng chó.