Các yếu tố ruột ức chế bài tiết dịch dạ dày

2022-03-23 03:21 PM

Dạ dày bài tiết một ít ml dịch vị mỗi giờ trong suốt giai đoạn giữa các lần phân giải thức ăn, khi mà có ít hoặc không có sự tiêu hóa diễn ra ở bất cứ vị trí nào của ruột.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Dịch nhũ chấp ruột mặc dù có thể kích thích nhẹ sự bài tiết ở dạ dày trong đoạn đầu của giai đoạn ở ruột trong sự bài tiết ở dạ dày, chúng ngược lại lại ức chế sự bài tiết dịch vị trong khoảng thời gian còn lại. Sự ức chế này là kết quả ít nhất của 2 tác động:

1). Sự xuất hiện của thức ăn ở ruột non khởi xướng một phản xạ dạ dày ruột dự trữ, truyền qua hệ thống thần kinh cơ ruột và dây thần kinh giao cảm và phế vị, nó ức chế sự bài tiết ở dạ dày. Phản xạ này có thể được khởi đầu bởi (a) sự căng thành ruột non, (b) sự xuất hiện của dịch acid ở phần trên của ruột non, (c) sự xuất hiện các sản phẩm phân giải của protein, hoặc (d) sự kích thích của niêm mạc. Phản xạ này là một phần của cơ chế phức hợp làm chậm sự làm rỗng của dạ dày trong khi ruột non đã bị chứa đầy thức ăn.

2). Sự xuất hiện của acid, chất béo, sản phẩm phân giải của protein, dịch ưu trương hoặc dịch nhược trương, hoặc bất kỳ một yếu tố kích thích nào tác động vào phần trên của ruột non sẽ gây ra sự gải phóng một vài hormone đường ruột. Một trong những hocmon này là secretin, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc kiểm soát sự bài tiết dịch tụy. Tuy nhiên, hocmon này lại đối kháng với sự bài tiết ở dạ dày. Ba hormone còn lại còn lại là peptid ức chế bài tiết gastrin, polypeptid vận mạch ruột và somatostatin - cũng có ảnh hưởng từ nhẹ đến trung bình trong việc ức chế bài tiết ở dạ dày. Mục đích của các yếu tố của ruột khi ức chế sự bài tiết của dạ dày có thể nhằm làm chậm dòng nhũ chấp từ dạ dày xuống khi mà ruột non đã chứa đầy thức ăn hoặc tạm thời quá tải. Thực tế, các phản xạ ức chế dạ dày ruột cộng với các hormone ức chế thường cùng làm giảm nhu động của dạ dày cùng lúc với việc giảm sự bài tiết của nó.

Sự bài tiết ở dạ dày trong thời gian giữa các lần tiêu hóa thức ăn

Dạ dày bài tiết một ít ml dịch vị mỗi giờ trong suốt giai đoạn giữa các lần phân giải thức ăn, khi mà có ít hoặc không có sự tiêu hóa diễn ra ở bất cứ vị trí nào của ruột. Sự bài tiết diễn ra thường ở dạng không acid, mà chứa chủ yếu là chất nhày và một ít pepsin và hoàn toàn không có HCl. Sự kích thích cảm giác có thể làm tăng sự bài tiết dịch vị giữa các đợt tiêu hóa (chứ lượng lớn peptid và acid) tới 50ml hoặc hơn trong vòng một giờ, tương tự như cách mà sự bài tiết ở pha diễn ra trong đầu tại thời điểm bắt đầu bữa ăn. Sự tăng bài tiết này đáp ứng lại kích thích cảm xúc được tin rằng là yếu tố góp phần cho sự phát triển của loét dạ dày.

Thành phần hóa học của Gastrin và những Hormone dạ dày ruột khác

Gastrin, cholecystokinin (CCK), và secretin đều là những polypeptis lớn với trọng lượng phân tự tương ứng xấp xỉ là 2000, 42000, và 3400. Năm acid amin cuối cùng của chuỗi phân tử Gastrin và CCK là giống nhau. Hoạt động chức năng của Gastrin nằm ở 4 acid amin cuối cùng, và hoạt động của CCK nằm ở 8 acid amin cuối của chuỗi. Tất cả acid amin trong phân tử Secretin đều cần thiết. Một phân tử gastrin tổng hợp, bao gồm 4 acid amin cuối cùng của gastrin tự nhiên cộng với acid amin alanine, đều có đầy đủ đặc tính sinh lý của gastrin tự nhiên. Gastrin tổng hợp này được gọi là Pentagastrin.

Bài viết cùng chuyên mục

Điều soát kích thước đồng tử của mắt

Vai trò của phản xạ ánh sáng là để giúp cho mắt đáp ứng ngay lập tức với sự thay đổi cường độ ánh sáng. Giới hạn của đường kính đồng tử vào khoảng 1.5 milimet ở trạng thái co nhỏ nhất và 8 milimet ở trạng thái giãn rộng nhất.

Sự bài tiết ở thực quản

Chất nhày được bài tiết bởi các tuyến phức hợp ở phần trên của thực quản giúp ngăn cản sự trầy xước niêm mạc gây ra khi thức ăn mới đi vào, trong khi các tuyến phức hợp ở ranh giới giữa thực quản và dạ dày.

Các giai đoạn bài tiết ở dạ dày

Bài tiết ở dạ dày ở giai đoạn kích thích tâm lý diễn ra thậm chí trước khi thức ăn đi vào dạ dày, đặc biệt khi đang được ăn. Sự bài tiết này là kết quả của quá trình trước khi thức ăn vào miệng như nhìn, ngửi, nghĩ hoặc nếm thức ăn.

Mãn kinh ở phụ nữ

Khi mãn kinh, cơ thể người phụ nữ phải điều chỉnh từ trạng thái sinh lý được kích thích bởi estrogen và progesterone sang trạng thái không còn các hormone này.

Các bất thường của áp lực đẩy máu động mạch

Ở người hẹp van động mạch chủ, đường kính của van động mạch chủ khi mở bị hạn chế rõ ràng và áp lực mạch chủ đập cũng giảm rõ bởi vì dòng máu đi ra bị giảm khi qua van bị hẹp đó.

Nhĩ thu và thất thu với các sóng: điện tâm đồ bình thường

Trước khi co bóp của cơ có thể xảy ra, sự khử cực phải lan truyền qua cơ. Sóng P xảy ra vào lúc bắt đầu của co bóp của tâm nhĩ, và phức bộ QRS của các sóng xảy ra vào lúc bắt đầu co bóp của tâm thất.

Canxi và photphatase trong dịch ngoại bào và huyết tương

Những tế bào dễ bị kích thích rất nhạy cảm với sự thay đổi của nồng độ ion canxi, nếu tăng quá ngưỡng bình thường gây giảm hoạt động của hệ thần kinh; ngược lại, giảm nồng độ canxi trong máu (hạ canxi máu) làm cho các tế bào thần kinh trở nên dễ bị kích thích hơn.

Bài tiết ion bicacbonat của tuyến tụy

Khi tuyến tụy bị kích thích để bài tiết ra một lượng dịch tụy dồi dào, nồng độ bicacbonat có thể lên cao tới khoảng 145 mEq/L, gấp khoảng 5 lần nồng độ ionbicacbonat trong huyết tương.

Chức năng của Mineralocorticoids Aldosterone

Aldosterol chiếm phần lớn hoạt tính mineralocorticoid của hormon vỏ thượng thận, nhưng corticoid là glucocorticoid chính được tiết ở vỏ thượng thận, cũng tham giá đáng kể vào hoạt tính của mineralocorticoid.

Bài tiết acetylcholine hoặc noradrenalin của các sợi thần kinh giao cảm và phó giao cảm

Toàn bộ hoặc gần như toàn bộ các tận cùng thần kinh của hệ phó giao cảm đều tiết acetylcholin. Gần như tất cả các tận cùng thần kinh của hệ giao cảm đều tiết noradrenalin, tuy nhiên một vài sợi tiết ra acetylcholine.

Cấu trúc hóa học của triglycerid (chất béo trung tính)

Cấu trúc triglycerid gồm 3 phân tử acid béo chuỗi dài kết nối với nhau bằng một phân tử glycerol. Ba acid béo phổ biến hiện nay cấu tạo triglycerides trong cơ thể con người.

Gen trong nhân tế bào kiểm soát tổng hợp protein

Tầm quan trọng DNA nằm trong khả năng kiểm soát sự hình thành của protein trong tế bào. Khi hai sợi của một phân tử DNA được tách ra, các bazơ purine và pyrimidine nhô ra ở mặt bên của mỗi sợi DNA.

Sóng T trên điện tâm đồ: những bất thường khử cực

Khi thiếu máu xảy ra ở 1 phần của tim, quá trình khử cực của vùng đó giảm không tương xứng với khử cực ở các vùng khác. Hệ quả là sự thay đổi của sóng T.

Nhịp tim chậm: nhịp xoang không bình thường

Định nghĩa “Nhịp tim đập chậm” là tốc độ nhịp tim chậm, thường là dưới 60 nhịp/ phút.

Ức chế đối kháng: cung phản xạ đồi kháng

Phản xạ gấp mạnh hơn này gửi các thông tin ức chế đến chi ban đầu và làm giảm độ co cơ ở chi này, nếu ta loại bỏ kích thích ở chi gấp mạnh hơn, chi ban đầu lại trở về co cơ với cường độ như ban đầu.

Tổng hợp những hormon chuyển hóa của tuyến giáp

Giai đoạn đầu hình thành hormon tuyến giáp là vận chuyện iod từ máu vào các tế bào tuyến giáp và các nang giáp. Màng đáy của tế bào tuyến giáp có khả năng đặc biệt để bơm iod tích cực vào trong tế bào.

Đồi thị: chức năng thị giác của nhân gối bên sau

Chức năng chính của nhân gối bên sau là “cổng” dẫn truyền tín hiệu tới vỏ não thị giác, tức là để kiểm soát xem có bao nhiêu tín hiệu được phép đi tới vỏ não.

Cấu trúc hóa học và sự tổng hợp insulin

Khi insulin được bài tiết vào máu, nó hầu như lưu thông ở dạng tự do. Bởi vì nó có thời gian bán hủy trung bình chỉ khoảng 6 phút nên phần lớn chúng bị loại bỏ khỏi tuần hoàn.

Kích thích cảm giác: sự phiên giải cường độ

Khi giải thích từng phần của những kết quả này, biểu diễn mối liên quan của điện thế nhận cảm tạo ra bởi tiểu thể Pacinian với cường độ của các kích thích cảm giác.

Chức năng của Lipoproteins trong vận chuyển Cholesterol và Phospholipids

Hầu hết các lipoprotein được hình thành ở gan, đó cũng là nơi mà hầu hết các cholesterol huyết tương, phospholipid và triglycerides được tổng hợp.

Dạng cao nguyên của điện thế hoạt động màng tế bào

Nguyên nhân của cao nguyên điện thế hoạt động màng tế bào là một sự kết hợp của nhiều yếu tố. Đầu tiên, trong cơ tim, hai loại kênh tưởng niệm đến quá trình khử cực.

Sóng hô hấp trong áp suất động mạch

Tăng huyết áp trong giai đoạn sớm của thì thở ra và giảm trong phần còn lại của chu kỳ hô hấp. Khi thở sâu, huyết áp có thể tăng 20mmHg với mỗi chu kỳ hô hấp.

Trở kháng thành mạch với dòng máu của hệ tuần hoàn

Trở kháng là sự cản trở với dòng máu trong mạch, không thể đo bằng phương tiện trực tiếp, chỉ được tính từ những công thức, phép đo của dòng máu và sự chênh lệch áp lực giữa 2 điểm trên mạch.

Sự vận chuyển CO2 trong máu và mô kẽ

Khi các tế bào sử dụng O2, hầu hết sẽ tạo ra PO2, và sự biến đổi này làm tăng PCO2 nội bào; vì PCO2 nội bào tăng cao nên CO2 khuếch tán từ tế bào vào các mao mạch và sau đó được vận chuyển trong máu đến phổi.

Đường cong hoạt động của tâm thất

Khi tâm thất được làm đầy đáp ứng với sự tăng cao áp suất tâm nhĩ, mỗi thể tích tâm thất và sức co cơ tim tăng lên, làm cho tim tăng bơm máu vào động mạch.