- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Ba chuyển đạo lưỡng cực chi: các chuyển đạo điện tâm đồ
Ba chuyển đạo lưỡng cực chi: các chuyển đạo điện tâm đồ
Một “chuyển đạo” không phải là một dây dẫn duy nhất kết nối từ cơ thể nhưng một sự kết hợp của hai dây dẫn và các điện cực của chúng tạo ra một mạch hoàn chỉnh giữa cơ thể và máy ghi điện tim.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Hình cho thấy các kết nối điện giữa các chi của bệnh nhân và máy ghi điện tim để ghi ECG từ cái gọi là các chuyển đạo lưỡng cực chi tiêu chuẩn. Thuật ngữ “lưỡng cực” có nghĩa là điện tâm đồ được ghi lại từ hai điện cực nằm ở hai bên khác nhau của tim – trong trường hợp này, trên các chi. Do đó, một “chuyển đạo” không phải là một dây dẫn duy nhất kết nối từ cơ thể nhưng một sự kết hợp của hai dây dẫn và các điện cực của chúng tạo ra một mạch hoàn chỉnh giữa cơ thể và máy ghi điện tim. Các máy ghi điện tim trong mỗi ví dụ được biểu diễn bằng một đồng hồ điện trong sơ đồ, mặc dù máy ghi điện tim thực tế là một hệ thống máy điện toán tốc độ cao với một màn hình điện tử.
Chuyển đạo DI. Trong ghi chuyển đạo chi I, cực âm của máy ghi điện tim được nối với cánh tay phải và cực dương được nối với cánh tay trái. Vì vậy, khi điểm nơi cánh tay phải kết nối với ngực là âm điện đối với điểm nơi cánh tay trái kết nối, máy ghi điện tim ghi lại một điện dương, tức là, trên đường đẳng điện trong ECG.
Khi điều ngược lại xảy ra, máy ghi điện tim ghi lại một đường dưới đường đẳng điện.
Hình. Sắp đặt quy ước của các điện cực để ghi lại các chuyển đạo điện tâm đồ tiêu chuẩn. Tam giác Einthoven được đặt lên trên ngực.
Chuyển đạo DII. Để ghi lại chuyển đạo chi II, cực âm của máy ghi điện tim được nối với cánh tay phải và cực dương được nối với chân trái. Vì vậy, khi cánh tay phải là âm đối với chân trái, máy ghi điện tim ghi lại một điện dương.
Chuyển đạo DIII. Để ghi lại chuyển đạo chi III, cực âm của máy ghi điện tim được nối với cánh tay trái và cực dương được nối với chân trái. Cấu hình này có nghĩa là máy ghi điện tim ghi lại một điện dương khi cánh tay trái là âm đối với chân trái.
Tam giác của Einthoven. Ở hình, tam giác, gọi là tam giác của Einthoven, được vẽ xung quanh vùng của tim. Tam giác này minh họa rằng hai cánh tay và chân trái tạo thành đỉnh của một tam giác xung quanh tim. Hai đỉnh ở phần phía trên của tam giác đại diện cho các điểm mà tại đó hai cánh tay kết nối điện với các dịch xung quanh tim, và đỉnh phía dưới là điểm mà tại đó chân trái kết nối với các dịch.
Hình. Điện tâm đồ bình thường ghi lại từ ba chuyển đạo ghi điện tâm đồ tiêu chuẩn.
Luật của Einthoven. Luật của Einthoven phát biểu rằng nếu ECG được ghi đồng thời với ba chuyển đạo chi, tổng các điện thế được ghi trong chuyển đạo I và III sẽ bằng với điện thế trong chuyển đạo II.
Điện thế chuyển đạo I + Điện thế chuyển đạo III = Điện thế chuyển đạo II
Nói một cách khác, nếu điện thế của bất kỳ hai trong ba chuyển đạo lưỡng cực chi của điện tim được biết đến ở bất kỳ thời điểm nào, chuyển đạo thứ ba có thể được xác đinh đơn giản bằng cách tính tổng hai cái kia. Lưu ý rằng, tuy nhiên, có những ký hiệu dương và âm của các chuyển đạo khác nhau phải được quan sát khi thực hiện phép cộng này.
Ví dụ như, chúng ta hãy giả sử rằng trong nhất thời, như đã nêu trên hình, cánh tay phải là -0,2mV (âm) đối với điện thế trung bình trong cơ thể, cánh tay trái là +0,3mV (dương), và chân trái là +1,0mV (dương). Quan sát các đồng hồ trong hình, ta có thể thấy chuyển đạo I ghi lại một điện thế dương +0,5mV vì đây là sự khác nhau giữa -0,2mV trên cánh tay phải và +0,3 mV trên cánh tay trái. Tương tự, chuyển đạo III ghi lại một điện thế dương +0,7mV, và chuyển đạo II ghi lại một điện thế dương +1,2mV vì đây là những điện thế tức thời khác nhau giữa các cặp tương ứng của các chi.
Bây giờ, lưu ý rằng tổng của các điện thế trong chuyển đạo I và III bằng với điện thế trong chuyển đạo II; đó là, 0,5 cộng với 0,7 bằng 1,2. Về mặt toán học, nguyên tắc này, gọi là luật của Einthoven, luôn đúng tại bất kỳ thời khắc tức thì nào trong lúc ba chuyển đạo lưỡng cực “tiêu chuẩn” của ECG đang được ghi lại.
Điện tâm đồ bình thường ghi từ ba chuyển đạo lưỡng cực chi tiêu chuẩn. Hình cho thấy các bản ghi của ECG ở các chuyển đạo I, II và III. Rõ ràng là ECG trong ba chuyển đạo là tương tự nhau bởi vì tất cả chúng đều ghi lại các sóng dương P và các sóng dương T, và phần chủ yếu của phức bộ QRS cũng là dương ở mỗi ECG.
Trên phân tích của ba ECG, có thể thấy, với phép đo cẩn thận và tuân thủ đúng các chiều phân cực, thì tại bất kỳ thời khắc nào đều cho tổng các điện thế trong các chuyển đạo I và III bằng điện thế trong chuyển đạo II, như vậy minh họa cho sự đúng đắn của luật Einthoven.
Bởi vì các bản ghi từ tất cả các chuyển đạo lưỡng cực chi là tương tự như nhau, nó không có ý nghĩa quan trọng nhiều mà chuyển đạo được ghi lại khi một người muốn chẩn đoán những rối loạn nhịp tim khác nhau, bởi vì chẩn đoán của rối loạn nhịp tim phụ thuộc chủ yếu vào các mối quan hệ thời gian giữa các sóng khác nhau của chu kỳ tim. Tuy nhiên, khi một người muốn chẩn đoán tổn thương trong cơ tâm thất hoặc tâm nhĩ hoặc trong hệ thống dẫn truyền Purkinje, nó là vấn đề rất quan trọng mà các chuyển đạo đã ghi lại vì những bất thường của co cơ tim hoặc dẫn truyền xung động tim thay đổi các kiểu của ECG rõ rệt trong một số chuyển đạo nhưng có thể không ảnh hưởng các chuyển đạo khác. Giải thích điện tâm đồ của hai loại trạng thái – các bệnh cơ tim và các rối loạn nhịp tim.
Bài viết cùng chuyên mục
Sự điều hòa bài tiết pepsinogen ở dạ dày
Tốc độ bài tiết pepsinogen - tiền chất của pepsin gây nên sự tiêu hóa protein - bị ảnh hưởng rất mạnh bởi lượng acid có mặt trong dạ dày. Ở những bệnh nhân mất khả năng bài tiết lượng acid cơ bản.
Sinh lý sinh dục nữ giới
Cơ quan sinh dục nữ gồm: (1) buồng trứng, (2) vòi trứng, (3) tử cung, (4) âm đạo và (5) âm hộ. (6) Tuyến vú cũng được xem là một phần của cơ quan sinh dục nữ (hình).
Sinh lý nội tiết tuyến giáp
Tuyến giáp nằm trước khí quản, dưới sụn giáp, nặng 20-25g, gồm 2 thùy, có eo ở giữa, cao 6cm, rộng 3cm, dày 2cm. Cấu trúc gồm nhiều nang giáp, trong chứa đầy dịch keo, xen lẫn hệ thống mạch máu rất phong phú (1% lưu lượng tim), ở đây tổng hợp và dự trữ hormon T3, T4.
Cơ chế phân tử của sự co cơ
Ở trạng thái co, các sợi actin này đã được kéo vào bên trong các sợi myosin, do đó hai đầu của chúng chồng lên nhau đến mức độ tối đa.
Sinh lý thần kinh vùng dưới đồi
Vùng dưới đồi có chức năng chống bài niệu thông qua ADH (antidiuretic hormon), đây là một hormon do nhân trên thị và nhân cạnh não thất bài tiết.
Cơ tâm thất của tim: sự dẫn truyền xung động
Các cơ tim bao phủ xung quanh tim trong một xoắn kép, có vách ngăn sợi giữa các lớp xoắn; do đó, xung động tim không nhất thiết phải đi trực tiếp ra ngoài về phía bề mặt của tim.
Truyền suy nghĩ trí nhớ và thông tin khác giữa hai bán cầu đại não: chức năng thể chai và mép trước trong
Hai bán cầu đại não có khả năng độc lập trong ý thức, trí nhớ, giao tiếp và điều khiển chức năng vận động. Thể chai cần thiết cho hai bán cầu trong các hoạt động phối hợp ở mức tiềm thức nông.
Vai trò của hải mã trong học tập
Hải mã bắt nguồn như một phần của vỏ não thính giác. Ở nhiều động vật bậc thấp, phần vỏ não này có vai trò cơ bản trong việc xác định con vật sẽ ăn thức ăn ngon hay khi ngửi thấy mùi nguy hiểm.
Kiểm soát lưu lượng máu mô bằng các yếu tố thư giãn hoặc co thắt có nguồn gốc từ nội mô
Điều quan trọng nhất của các yếu tố giãn mạch nội mô là NO, một khí ưa mỡ được giải phóng từ tế bào nội mô đáp ứng với rất nhiều kích thích hóa học và vật lý.
Hoàng thể và giai đoạn hoàng thể của chu kỳ buồng trứng
Ở phụ nữ bình thường, hoàng thể lớn lên đạt đường kính khoảng 1,5 cm sau 7- 8 ngày sau phóng noãn. Sau đó hoàng thể bắt đầu teo đi và cuối cùng mất chức năng chế tiết cũng như màu vàng nhạt- màu của chất béo sau phóng noãn khoảng 12 ngày.
Các vùng các lớp và chức năng của vỏ não: cảm giác thân thể
Vùng cảm giác thân thể I nhạy cảm hơn và quan trọng hơn nhiều so với vùng cảm giác bản thể II đến mức trong thực tế, khái niệm “vỏ não cảm giác thân thể” hầu như luôn luôn có ý chỉ vùng I.
Các bất thường của áp lực đẩy máu động mạch
Ở người hẹp van động mạch chủ, đường kính của van động mạch chủ khi mở bị hạn chế rõ ràng và áp lực mạch chủ đập cũng giảm rõ bởi vì dòng máu đi ra bị giảm khi qua van bị hẹp đó.
Sự di chuyển của trứng đã thụ tinh trong ống dẫn trứng
Progesterone tăng tiết ra nhiều bởi hoàng thể buồng trứng đầu tiên thúc đẩy tăng thụ thể progesterone ở các tế bào cơ trơn ống dẫn trứng, sau đó progesterone kích thích các thụ thể, gây giãn ống cho phép trứng đi vào tử cung.
Corticosteroid: Mineralocorticoid, Glucocorticoids và Androgen
Vỏ thượng thận tiết 2 loại hormon chính là mineralocorticoid và glucocorticoid, thêm vào đó nó còn tiết 1 lượng nhỏ hormon sinh dục, đặc biệt hormon androgen, tác dụng giống hormon sinh dục testosteron.
Các hệ thống kiểm soát Cortisol
Feedback của cortisol cho cả vùng dưới đồi và thùy trước tuyến yên cũng xảy ra để làm giảm nồng độ cortisol trong huyết tương ở những lần cơ thể không bị stress.
Dẫn truyền thị giác: đường dẫn truyền từ hai võng mạc đến vỏ não thị giác
Đường dẫn thị giác có thể được chia sơ bộ thành một hệ thống cũ tới trung não và nền não trước và một hệ thống mới để truyền trực tiếp tín hiệu hình ảnh về vỏ não thị giác ở thùy chẩm.
Cơ quan Corti: tầm quan trọng trong việc thu nhận âm thanh
Các thụ thể nhận cảm trong cơ quan Corti gồm 2 loại tế bào thần kinh được gọi là tế bào lông- một hàng tế bào lông ở trong, và 3 đến 4 hàng tế bào lông ở bên ngoài, gồm 12,000 tế bào có đường kính chỉ khoảng 8 micro mét.
Vùng dưới đồi bài tiết GnRH kích thích thùy trước tuyến yên tiết FSH và LH
Trung tâm sản xuất GnRH ở vùng dưới đồi. Hoạt động thần kinh điều khiển sự chế tiết GnRH diễn ra tại vùng mediobasal hypothalamus, đặc biệt ở phần nhân cung của khu vực này.
Tăng huyết áp có angiotensin tham gia: gây ra bởi khối u tiết renin hoặc thiếu máu thận cục bộ
Một khối u của các tế bào cận cầu thận tiết renin xuất hiện và tiết số lượng lớn của renin, tiếp theo, một lượng tương ứng angiotensin II được hình thành.
Sự phát triển của buồng trứng
Khi buồng trứng phóng noãn (rụng trứng) và nếu sau đó trứng được thụ tinh, bước phân bào cuối cùng sẽ xảy ra. Một nửa số các nhiễm sắc thể chị em vẫn ở lại trong trứng thụ tinh và nửa còn lại được chuyển vào thể cực thứ hai, sau đó tiêu biến.
Sinh lý hồng cầu máu
Hồng cầu không có nhân cũng như các bào quan, thành phần chính của hồng cầu là hemoglobin, chiếm 34 phần trăm trọng lượng.
Hấp thu các chất dinh dưỡng ở ruột non
Hấp thu carbohydrate, hấp thu glucose, hấp thu protein dưới dạng dipeptit, tripeptit hoặc axit amin, hấp thu chất béo và hấp thu các monosaccharide khác.
PO2 phế nang: phụ thuộc vào các độ cao khác nhau
Khi lên độ cao rất lớn, áp suất CO2 trong phế nang giảm xuống dưới 40 mmHg (mặt nước biển). Con người khi thích nghi với độ cao có thể tăng thông khí lên tới 5 lần, tăng nhịp thở gây giảm PCO2 xuống dưới 7 mmHg.
Các dạng khác nhau của các tuyến tiêu hóa
Hầu hết sự tạo thành các enzym tiêu hóa đều là do việc đáp ứng lại với sự có mặt của thức ăn trong đường tiêu hóa, và lượng được bài tiết trong mỗi đoạn của đường tiêu hóa luôn luôn phù hợp với lượng thức ăn đó.
Hệ thống đệm hemoglobin cho PO2 ở mô
O2 có thể thay đổi đáng kể, từ 60 đến hơn 500 mm Hg, nhưng PO2 trong các mô ngoại vi không thay đổi nhiều hơn vài mmHg so với bình thường, điều này đã chứng minh rõ vai trò "đệm oxy" ở mô của hệ thống hemoglobin trong máu.