Nghiên cứu y học bệnh chứng

2022-03-20 01:56 PM

Chiến lược phân tích đơn giản nhất và được sử dụng phổ biến nhất trong dịch tễ học liên quan đến nghiên cứu bệnh chứng. Nó được thiết kế chủ yếu để xác định nguyên nhân của các bệnh.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các nghiên cứu quan sát, trong đó thiết lập mối quan hệ (mối liên hệ) giữa "yếu tố nguy cơ" (tác nhân căn nguyên) và kết quả (bệnh) là mục tiêu chính, được gọi là phân tích. Trong loại nghiên cứu này, kiểm tra giả thuyết là công cụ chính để suy luận. Cách tiếp cận cơ bản trong nghiên cứu phân tích là phát triển một giả thuyết cụ thể, có thể kiểm tra được và thiết kế nghiên cứu để kiểm soát bất kỳ biến ngoại lai nào có khả năng làm nhiễu mối quan hệ quan sát được giữa yếu tố được nghiên cứu và bệnh tật. Cách tiếp cận khác nhau tùy theo chiến lược cụ thể được sử dụng.

Chiến lược phân tích đơn giản nhất và được sử dụng phổ biến nhất trong dịch tễ học liên quan đến nghiên cứu bệnh chứng. Nó được thiết kế chủ yếu để xác định nguyên nhân của các bệnh bằng cách điều tra mối liên quan giữa việc tiếp xúc với một yếu tố nguy cơ và sự xuất hiện của bệnh. Thiết kế tương đối đơn giản, ngoại trừ việc nó được nhìn lại (hồi tưởng) dựa trên lịch sử tiếp xúc của các trường hợp bệnh và chứng. Với loại nghiên cứu này, người ta điều tra mối liên quan bằng cách đối chiếu sự phơi nhiễm của một loạt các trường hợp mắc bệnh cụ thể với kiểu phơi nhiễm của các nhóm đối chứng được lựa chọn cẩn thận không mắc bệnh cụ thể đó. Dữ liệu được phân tích để xác định xem mức độ phơi nhiễm có khác nhau đối với các trường hợp bệnh và đối với nhóm đối chứng hay không. Yếu tố nguy cơ là một cái gì đó đã xảy ra hoặc bắt đầu trong quá khứ, có lẽ là trước khi bệnh khởi phát, ví dụ: hút thuốc, hoặc bị nhiễm trùng hoặc dùng thuốc trước đó. Thông tin về sự phơi nhiễm có được bằng cách thu thập tiền sử và / hoặc từ hồ sơ.

Đôi khi, yếu tố hoặc thuộc tính nghi ngờ là yếu tố vĩnh viễn, chẳng hạn như nhóm máu, có thể được xác định bằng điều tra lâm sàng hoặc xét nghiệm. Tần suất thuộc tính hoặc yếu tố nguy cơ trong các trường hợp cao hơn so với các đối chứng là dấu hiệu cho thấy mối liên quan của nó với bệnh / tình trạng - mối liên quan có thể có ý nghĩa căn nguyên. Nói cách khác, nếu tỷ lệ trường hợp mắc bệnh nhiều hơn đối chứng có tiền sử phơi nhiễm, hoặc có hồ sơ hoặc dấu hiệu phơi nhiễm trong quá khứ, thì yếu tố hoặc thuộc tính có thể bị nghi ngờ là yếu tố gây bệnh.

Lựa chọn nhóm bệnh

Điều gì tạo nên một ca bệnh trong nghiên cứu cần được xác định rõ ràng liên quan đến loại mô học và các đặc điểm cụ thể khác của bệnh, chẳng hạn như ngày chẩn đoán, vị trí địa lý, v.v.

Các trường hợp không phù hợp với các tiêu chí này nên được loại khỏi nghiên cứu.

Thiết kế này đặc biệt hiệu quả đối với các bệnh hiếm gặp, bởi vì tất cả các trường hợp phù hợp với tiêu chí nghiên cứu trong một bối cảnh cụ thể trong một khoảng thời gian cụ thể thường được đưa vào. Điều này cho phép một số lượng hợp lý các trường hợp được đưa vào nghiên cứu mà không cần chờ đợi sự xuất hiện của các trường hợp bệnh mới, vốn có thể mất nhiều thời gian.

Vì lý do thuận tiện và đầy đủ hồ sơ của nhóm bệnh, các trường hợp được xác định cho nghiên cứu bệnh chứng thường là các trường hợp từ bệnh viện, từ các hoạt động của bác sĩ hoặc từ các hồ sơ đăng ký bệnh. Các trường hợp mới được chẩn đoán trong một khoảng thời gian cụ thể (trường hợp sự cố) được ưu tiên hơn các trường hợp phổ biến, vì lựa chọn như vậy có thể loại trừ khả năng những người sống sót lâu dài của một căn bệnh đã tiếp xúc với yếu tố nguy cơ được điều tra sau khi bệnh khởi phát.

Việc lựa chọn các trường hợp phải sao cho kết quả nghiên cứu đáng tin cậy và có giá trị. Vì những lý do này, các hướng dẫn nên được sử dụng khi lựa chọn các trường hợp trong một nghiên cứu bệnh chứng:

1). Các tiêu chí để đưa vào nghiên cứu (những gì cấu thành) và các tiêu chí loại trừ khỏi nghiên cứu phải được quy định rõ ràng; điều này sẽ cải thiện tính hợp lệ của các kết quả;

2). Nguồn gốc của nhóm bệnh có thể là:

- Tất cả các trường hợp được nhận vào hoặc xuất viện từ bệnh viện, phòng khám, hoặc cơ sở y tế trong một khoảng thời gian nhất định;

- Tất cả các trường hợp được báo cáo hoặc chẩn đoán trong một cuộc khảo sát hoặc chương trình giám sát trong một khoảng thời gian xác định;

- Sự cố hoặc các trường hợp mới được chẩn đoán;

- Các trường hợp sự cố trong một nghiên cứu thuần tập đang diễn ra hoặc trong một nhóm thuần tập nghề nghiệp (đôi khi được gọi là một nghiên cứu bệnh chứng lồng ghép);

- Tử vong với hồ sơ về nguyên nhân tử vong, và đáp ứng các tiêu chí khác cho nghiên cứu;

- Các trường hợp có kết quả sức khỏe theo quy định;

3). Nếu số lượng trường hợp quá lớn, có thể sử dụng mẫu xác suất;

4). Các trường hợp được chọn cho nghiên cứu phải là đại diện cho tất cả các trường hợp bệnh đang được xem xét.

Lựa chọn nhóm chứng

Điều quan trọng là phải thiết lập một hoặc nhiều nhóm chứng gồm những người không mắc bệnh hoặc tình trạng cụ thể để có được ước tính về tần suất của thuộc tính hoặc yếu tố nguy cơ để so sánh với tần suất của nó với nhóm bệnh. Đây là khía cạnh quan trọng nhất của nghiên cứu bệnh chứng, vì sự thiên lệch trong việc lựa chọn nhóm chứng có thể làm mất hiệu lực của kết quả nghiên cứu và sự thiên lệch trong việc lựa chọn các biện pháp kiểm soát thường là nguyên nhân lớn nhất gây lo ngại khi phân tích dữ liệu từ các nghiên cứu bệnh chứng.

1). Nguồn của nhóm chứng có thể là:

- Mẫu xác suất của một tập hợp xác định, nếu các trường hợp được rút ra từ tập hợp xác định đó;

- Mẫu bệnh nhân được nhận vào, hoặc xuất hiện tại cùng một cơ sở với nhóm bệnh;

- Mẫu về người thân hoặc cộng sự của  nhóm bệnh;

- Nhóm người được chọn từ cùng một quần thể nguồn giống như nhóm bệnh, và phù hợp các biến có khả năng gây nhiễu với nhóm bệnh;

- Các yếu tố rủi ro khác (ngoài yếu tố đang được xem xét);

2). Việc lựa chọn nhóm chứng có thể liên quan đến việc phù hợp với các yếu tố rủi ro khác:

- Phù hợp có nghĩa là các đối chứng được lựa chọn sao cho nhóm bệnh và đối chứng có cùng (hoặc rất giống) các đặc điểm khác và yếu tố nguy cơ đang được điều tra. Các đặc điểm là những đặc điểm có thể làm nhiễu ảnh hưởng của yếu tố nguy cơ giả định, tức là những đặc điểm này được biết là có mối liên hệ với bệnh và có thể liên quan đến yếu tố nguy cơ đang được nghiên cứu. Mục đích của việc đối sánh là để đảm bảo sự so sánh của các đặc điểm này cho hai nhóm, sao cho bất kỳ mối liên quan nào quan sát được giữa yếu tố nguy cơ giả định và bệnh tật không bị ảnh hưởng bởi sự phân bổ khác biệt của các đặc điểm này.

Các đặc điểm khác. Thông thường, các nghiên cứu bệnh chứng về bệnh thường được khớp theo tuổi, giới tính, chủng tộc và tình trạng kinh tế xã hội, vì chúng ta biết tất cả các yếu tố này đều ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc hầu hết các bệnh. Đối sánh có thể được thực hiện trên cơ sở cá nhân (đối sánh một đối một) hoặc trên cơ sở nhóm (đối sánh tần số). Đối sánh riêng lẻ được ưu tiên hơn, vì tính toán đối sánh dễ dàng phân tích. Những bất lợi của việc so khớp bao gồm mất độ chính xác và trùng khớp.

Ngoài ra, khi một thiết kế phù hợp được sử dụng, biến đối sánh bị loại khỏi việc xem xét, và do đó nó không thể được điều tra về mối liên hệ nguyên nhân với bệnh.

Ví dụ, nếu chúng tôi đối sánh tình trạng hôn nhân trong một nghiên cứu về ung thư vú, chúng tôi sẽ không biết liệu phụ nữ độc thân hay đã kết hôn có nguy cơ mắc ung thư vú khác nhau hay không.

Nhiều nhà dịch tễ học thích thực hiện các nghiên cứu mà không cần đối sánh và sử dụng các phương pháp thống kê để điều chỉnh khả năng gây nhiễu trong quá trình phân tích, vì độ chính xác cao hơn và khả năng điều tra bất kỳ tác động tương tác nào có thể xảy ra. Việc sử dụng các đối chứng chưa từng có, thu được thông qua lấy mẫu ngẫu nhiên, cho phép linh hoạt hơn trong việc nghiên cứu các tương tác khác nhau. Điều quan trọng nhất là thông tin về các yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn cần được thu thập trong nghiên cứu để có thể điều chỉnh những yếu tố này trong phân tích.

3). Số lượng nhóm đối chứng có thể khác nhau. Đôi khi mong muốn có nhiều hơn, đại diện cho nhiều tình trạng bệnh khác với nhóm đang nghiên cứu và / hoặc nhóm không nằm viện. Sử dụng nhóm đối chứng nhiều mang lại ba lợi thế:

Nếu tần suất của thuộc tính hoặc yếu tố rủi ro không khác biệt giữa nhóm bệnh này với nhóm chứng khác, nhưng liên tục thấp hơn giữa nhóm bệnh, điều này làm tăng tính nhất quán nội bộ của mối liên kết;

Nếu một nhóm chứng được thực hiện gồm những bệnh nhân mắc bệnh khác, có liên quan độc lập với yếu tố nguy cơ, thì sự khác biệt về tần suất của yếu tố giữa nhóm bệnh và nhóm chứng có thể được che giấu. Trong trường hợp như vậy, việc sử dụng một nhóm chứng khác sẽ cứu được nghiên cứu đang thực hiện;

Nhiều nhóm chứng cung cấp một kết về sự thiên vị.

Thu thập dữ liệu về phơi nhiễm và các yếu tố khác

Thường dữ liệu được thu thập thông qua phỏng vấn, bảng câu hỏi và / hoặc kiểm tra hồ sơ. Đôi khi, kiểm tra lâm sàng và xét nghiệm được thực hiện, nhưng thường thì điều này là không thể, đặc biệt nếu 'trường hợp' bao gồm các trường hợp trong quá khứ và cũng có thể bao gồm một số trường hợp tử vong.

Các biện pháp phòng ngừa sau đây cần được thực hiện khi quyết định chiến lược thu thập dữ liệu:

- Quan sát phải khách quan, hoặc, nếu thu được bằng các phương pháp khảo sát, được tiêu chuẩn hóa tốt;

- Nghiên cứu viên hoặc người phỏng vấn không nên biết đối tượng nằm trong nhóm bệnh hay nhóm đối chứng (làm mù);

- Các thủ tục giống nhau, ví dụ: phỏng vấn và thu thập lâm sàng và cận lâm sàng, nên được sử dụng cho tất cả các nhóm.

Nghiên cứu bệnh chứng đa yếu tố

Hình thức nghiên cứu bệnh chứng phổ biến giải quyết một nhân tố hoặc thuộc tính chính tại một thời điểm. Tuy nhiên, có thể điều tra một số yếu tố phơi nhiễm trong cùng một nghiên cứu.

Ưu điểm của nghiên cứu bệnh chứng

Sau đây là các ví dụ về lợi thế của nghiên cứu bệnh chứng:

- Khả thi khi căn bệnh đang được nghiên cứu hiếm khi xảy ra, ví dụ: ung thư của một cơ quan cụ thể;

- Tương đối hiệu quả, yêu cầu một mẫu nhỏ hơn nghiên cứu thuần tập;

- Ít vấn hao hụt mẫu, vì khi theo dõi yêu cầu điều tra định kỳ và một số đối tượng từ chối tiếp tục hợp tác;

- Đôi khi nghiên cứu là chiến lược quan sát thực tế sớm nhất để xác định mối liên quan (ví dụ: sử dụng diethylstilbesterol và ung thư biểu mô tuyến tế bào rõ của âm đạo).

Nâng cao hiệu lực của các nghiên cứu bệnh chứng

Những cách mà người ta có thể tăng tính hợp lệ của một nghiên cứu bao gồm đảm bảo rằng:

- Chọn nhóm bệnh đại diện cho tất cả nhóm bệnh trong một bối cảnh cụ thể;

- Chọn nhóm chứng tương tự với nhóm bệnh liên quan đến các yếu tố rủi ro khác với yếu tố nghiên cứu;

- Nhiều nhóm chứng được sử dụng với kết quả nhất quán;

- Nhóm bệnh và nhóm chứng được lựa chọn thực sự độc lập với tình trạng phơi nhiễm;

- Các nguồn gây sai lệch được giảm thiểu, hoặc ít nhất là không ảnh hưởng đến kết quả.

- Các nghiên cứu lặp lại ở các cơ sở khác nhau và bởi các nhà nghiên cứu khác nhau xác nhận lẫn nhau (ví dụ, mối liên quan giữa hút thuốc lá và ung thư phổi đã được báo cáo bởi hơn 25 nhà điều tra từ mười quốc gia);

- Có thể chứng minh mối quan hệ giữa đáp ứng liều hoặc độ dốc (ví dụ, một số nghiên cứu bệnh chứng cho thấy rằng số lượng thuốc lá hút mỗi ngày có liên quan đến nguy cơ ung thư phổi);

- Thiết kế kết hợp của nghiên cứu bệnh chứng lồng trong một nghiên cứu thuần tập với một dân số xác định được sử dụng; đây là một chiến lược mạnh mẽ nhất.

Nhược điểm và thành kiến ​​của nghiên cứu bệnh chứng

- Sự vắng mặt của các mẫu dịch tễ học (dân số có nguy cơ) làm cho việc tính toán tỷ lệ mắc và do đó các rủi ro liên quan, không thể thực hiện được;

- Tính thời gian là một vấn đề nghiêm trọng trong nhiều nghiên cứu bệnh chứng khi không thể xác định liệu thuộc tính đã dẫn đến bệnh / tình trạng hay ngược lại;

- Có nhiều rủi ro sai lệch trong việc lựa chọn nhóm bệnh và nhóm chứng. Điều này đặc biệt nghiêm trọng khi một nhóm chứng duy nhất có liên quan đến yếu tố rủi ro đang được điều tra;

- Có thể rất khó hoặc không thể có được thông tin về sự phơi nhiễm nếu thời gian kéo dài;

- Sự sống còn có chọn lọc, hoạt động trong các nghiên cứu bệnh chứng, có thể làm sai lệch so sánh; không có cách nào để xác định liệu mức độ phơi nhiễm có giống nhau đối với những người đã chết và những người sống sót hay không;

- Hầu hết các nghiên cứu bệnh chứng được thực hiện trong bệnh viện, chúng phải chịu trách nhiệm về sự ngụy biện, hoặc ảnh hưởng của các chính sách và tỷ lệ nhập viện khác nhau;

- Có thể tồn tại sai lệch đo lường, bao gồm có chọn lọc và phân loại sai (đưa các trường hợp vào nhóm chứng, hoặc ngược lại);

- Các nghiên cứu bệnh chứng không có khả năng tiết lộ các tình trạng khác liên quan đến yếu tố nguy cơ: ví dụ, trong một nghiên cứu về tác dụng phụ của thuốc tránh thai, người ta đã để biết tác dụng phụ của chúng trước khi có thể thiết lập thiết kế kiểm soát trường hợp.

Bài viết cùng chuyên mục

Phương pháp chọn mẫu trong nghiên cứu y học lâm sàng

Có hai loại phương pháp lấy mẫu chính, phương pháp chọn mẫu xác suất trong đó các đối tượng trong quần thể mục tiêu đều có cơ hội được chọn trong mẫu như nhau, và phương pháp chọn mẫu phi xác suất trong đó tập hợp mẫu được chọn trong một quy trình phi hệ thống.

Phương pháp lấy mẫu trong nghiên cứu y học

Khi quần thể đã được xác định và kích thước của mẫu được xác định, chúng ta cần quyết định cách chúng ta sẽ chọn mẫu từ tổng thể. Kích thước của mẫu cũng sẽ phụ thuộc vào sự lựa chọn này.

Phương pháp lấy mẫu nghiên cứu trong y học

Kích thước của mẫu cũng sẽ phụ thuộc vào sự lựa chọn và do đó, vấn đề về kích thước mẫu có thể phải được xem xét lại sau khi lựa chọn phương pháp lấy mẫu.

Cỡ mẫu cho các nghiên cứu mô tả trong y học

Trong trường hợp nghiên cứu mô tả, thường mục tiêu là thu được ước tính của một tham số quần thể, quyết định chính của cỡ mẫu là kết quả cần phải chính xác đến mức nào, điều này phụ thuộc vào mục đích của nghiên cứu.

Quy trình lấy mẫu trong nghiên cứu y học

Trước khi lấy mẫu, quần thể phải được xác định rõ ràng. Trong một cuộc điều tra quần thể, điều này đòi hỏi phải có một danh sách của tất cả các cá thể trong quần thể.

Chọn mẫu trong nghiên cứu y học

Chọn mẫu là một quá trình lựa chọn một bộ phận của dân số để quan sát và nghiên cứu. Có một số lý do tại sao các mẫu được chọn để nghiên cứu, thay vì toàn bộ dân số.

Thử nghiệm can thiệp cộng đồng trong y học

Trong thử nghiệm can thiệp cộng đồng, điểm khác biệt chính so với thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên là sự ngẫu nhiên được thực hiện trên các cộng đồng chứ không phải cá nhân.

Yếu tố ảnh hưởng đến thử nghiệm lâm sàng trong y học (giai đoạn III)

Các tiêu chí chấm dứt thử nghiệm cần được quy định rõ ràng. Trong hầu hết các trường hợp, phải đạt được cỡ mẫu cố định trước khi ngừng thử nghiệm.

Các giai đoạn thử nghiệm lâm sàng trị liệu trong y học

Thông lệ phê duyệt các loại thuốc hoặc thiết bị để sử dụng chung sau khi thử nghiệm thành công ở giai đoạn ba, nhưng sự quan tâm ngày càng tăng trong việc đưa thuốc và thiết bị sang giai đoạn khác.

Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên trong y học

Các thử nghiệm trị liệu có thể được tiến hành để kiểm tra tính hiệu quả, ví dụ tác nhân điều trị có hoạt động trong một tình huống lý tưởng, được kiểm soát không? hoặc để kiểm tra tính hiệu quả.

Mục đích nghiên cứu thực nghiệm trong y học

Thử nghiệm là quan trọng trong việc thiết lập mối quan hệ nhân quả, nhưng nó thường không khả thi cũng như không có đạo đức khi đưa con người vào các yếu tố nguy cơ trong các nghiên cứu căn nguyên.

Nghiên cứu thực nghiệm và bán thực nghiệm

Trong nghiên cứu sức khỏe, thường quan tâm đến thử nghiệm so sánh, trong đó một hoặc nhiều nhóm có các biện pháp can thiệp cụ thể được so sánh với một nhóm không tiếp xúc với các biện pháp can thiệp.

So sánh tỷ lệ của nghiên cứu mô tả trong y học

Khi so sánh tỷ lệ giữa các nơi hoặc giữa các thời điểm, điều quan trọng là phải tính đến bất kỳ thay đổi đồng thời nào trong các biến số liên quan khác, chủ yếu là tuổi, giới tính và chủng tộc.

Mức độ phổ biến của nghiên cứu mô tả trong y học

Tỷ lệ hiện mắc là thước đo hiện trạng của một căn bệnh trong một quần thể tại một thời điểm cố định hoặc trong một khoảng thời gian xác định. Đó là tỷ lệ những người mắc bệnh tại một điểm hoặc thời kỳ xác định.

Đo tỷ lệ mắc và tỷ lệ hiện mắc của nghiên cứu mô tả trong y học

Những thước đo về sự phân bố của sự xuất hiện của bệnh có lẽ là chỉ số phổ biến nhất được sử dụng để đánh giá tỷ lệ mắc bệnh trong dân số. Tỷ lệ mắc bệnh đo lường sự xuất hiện của các trường hợp bệnh mới.

Các loại nghiên cứu mô tả trong y học

Có một số loại nghiên cứu mô tả như nghiên cứu chuỗi trường hợp, chẩn đoán cộng đồng hoặc đánh giá nhu cầu, mô tả dịch tễ học về sự xuất hiện của bệnh và nghiên cứu mô tả cắt ngang.

Nghiên cứu sinh thái học trong y học

Trong nghiên cứu sinh thái, đơn vị quan sát là một tổng thể, một địa phương hành chính địa lý, một cụm nhà, một thị trấn, một quốc gia, có thể có bất kỳ dạng nào.

Nghiên cứu cắt ngang trong y học

Trong nghiên cứu cắt ngang, nhà nghiên cứu đo mức độ phơi nhiễm và bệnh tật đồng thời trong một mẫu đại diện của dân số. Bằng cách lấy một mẫu đại diện, có thể tổng quát hóa các kết quả thu được trong mẫu cho tổng thể.

Nghiên cứu thuần tập tiên lượng trong y học

Nghiên cứu thuần tập tiên lượng là một loại nghiên cứu thuần tập đặc biệt được sử dụng để xác định các yếu tố có thể ảnh hưởng đến tiên lượng sau khi chẩn đoán hoặc điều trị.

Nghiên cứu thuần tập hồi cứu trong y học

Nghiên cứu thuần tập hồi cứu phụ thuộc vào sự sẵn có của dữ liệu hoặc hồ sơ cho phép xây dựng lại sự phơi nhiễm với một yếu tố nguy cơ nghi ngờ và theo dõi tỷ lệ tử vong hoặc bệnh tật của họ theo thời gian.

Nghiên cứu thuần tập tương lai trong y học

Chiến lược chung của các nghiên cứu thuần tập là bắt đầu với một quần thể tham chiếu, một số người trong số họ có các đặc điểm hoặc thuộc tính nhất định liên quan đến nghiên cứu.

Nghiên cứu mô tả trong y học

Sự phong phú của tài liệu thu được trong hầu hết các nghiên cứu mô tả cho phép tạo ra các giả thuyết, sau đó có thể được kiểm tra bằng các thiết kế phân tích hoặc thí nghiệm.

So sánh nghiên cứu thực nghiệm và quan sát trong y học

Có một lĩnh vực dịch tễ học mà các chiến lược thử nghiệm được sử dụng rộng rãi: đây là lĩnh vực thử nghiệm lâm sàng và thực địa để thử nghiệm các loại thuốc mới hoặc các chương trình can thiệp.

Độ tin cậy và tính hợp lệ trong nghiên cứu y học

Độ tin cậy và tính hợp lệ của các suy luận phụ thuộc vào độ tin cậy và tính hợp lệ của các phép đo. Cũng như độ tin cậy và tính hợp lệ của các mẫu được chọn.

Chiến lược và thiết kế nghiên cứu y học

Để phát triển một chiến lược nghiên cứu tốt, chúng ta cần hiểu bản chất của những lỗi hoặc biến thể và các phương pháp có sẵn để đo lường các sai sót.

Lập kế hoạch và quản lý nghiên cứu trong y học

Trong điều kiện hạn chế về ngân sách nghiên cứu, ngày càng trở nên cần thiết rằng nghiên cứu sức khỏe phải là nghiên cứu được lập trình với các mục tiêu được xác định rõ ràng và có thể đạt được trên thực tế.

Tiếp cận nguyên tắc thống kê trong thiết kế nghiên cứu y học

Trong cả hai cách tiếp cận, lý luận thống kê sử dụng các định luật xác suất hướng dẫn quá trình suy diễn. Một số giả định về dân số, các đặc điểm và phân bố xác suất, và ủng hộ hoặc mâu thuẫn được đánh giá.

Hướng dẫn về trích dẫn tham khảo phong cách Vancouver

Trích dẫn tham khảo phong cách Vancouver là một hệ thống tham chiếu thường được sử dụng trong y học, trong số các ngành khoa học khác.

Hướng dẫn về trích dẫn tham khảo phong cách Harvard

Phong cách tham khảo Harvard phổ biến nhất được sử dụng trong các trường đại học. Tác giả và năm được trích dẫn trong văn bản và đầy đủ chi tiết nguồn được đưa ra trong danh sách tham khảo.

Hướng dẫn trình bày bảng trong nghiên cứu y học

Các bảng phải được thiết kế tránh lặp lại và đơn giản, rõ ràng, không gây nhầm lẫn. Các bảng phải cô đọng, tránh tách rời các dữ liệu tương tự, để tất cả các thông tin liên quan có thể được trình bày cùng nhau.

Cách viết tài liệu tham khảo trong nghiên cứu y học

Tất cả các tài liệu tham khảo nên được viết theo cùng một phong cách với cùng một cách sắp xếp. Các tài liệu tham khảo gần đây tốt hơn những tài liệu tham khảo cũ hơn, và tài liệu tham khảo sách ít có ý nghĩa nhất.

Cách viết bàn luận trong nghiên cứu y học

Phần bàn luận và kết quả bắt đầu bằng mỗi kết quả thu được phải được bàn luận đầy đủ và so sánh với các nghiên cứu tương tự trước đó theo cách tương ứng, logic và rõ ràng.

Cách viết phần kết quả trong nghiên cứu y học

Kết quả của tất cả các phương pháp được sử dụng phải được cung cấp một cách tương ứng và có hệ thống. Trình bày kết quả dưới dạng văn bản, bảng hoặc biểu đồ, nhưng không lặp lại cùng một dữ liệu.

Cách viết phần phương pháp nghiên cứu y học

Phần phương pháp có thể được đặt tên là đối tượng và phương pháp, phần thực nghiệm hoặc bệnh nhân (vật liệu) và phương pháp tùy thuộc vào loại nghiên cứu.

Cách viết phần giới thiệu của nghiên cứu y học

Phần giới thiệu phải bắt đầu bằng một bài đánh giá ngắn nêu ra cốt lõi của chủ đề. Bài đánh giá phải ngắn gọn, thú vị và nhiều thông tin. Đánh giá lịch sử dài là buồn tẻ.

Lĩnh vực nghiên cứu dịch tễ học

Điểm quan tâm chính trong các nghiên cứu dịch tễ học là điều tra sự phân bố và những thay đổi lịch sử về tần suất mắc bệnh và nguyên nhân gây ra những bệnh này.

Lĩnh vực nghiên cứu y học lâm sàng

Mục đích của một nghiên cứu lâm sàng can thiệp là so sánh các quy trình điều trị trong một quần thể bệnh nhân, những quy trình này phải thể hiện càng ít sự khác biệt bên trong càng tốt, ngoại trừ phương pháp điều trị.

Lĩnh vực nghiên cứu y học cơ bản

Nghiên cứu y học cơ bản bao gồm các thực nghiệm trên động vật, nghiên cứu tế bào, xét nghiệm sinh hóa, di truyền và sinh lý học cũng như các nghiên cứu về đặc tính của thuốc và vật liệu.

Cách viết tóm tắt và giới thiệu một công trình nghiên cứu y học

Phần tóm tắt mô tả đặc biệt được sử dụng cho các bài lý thuyết, phương pháp luận hoặc tổng quan. Nó thường bao gồm một đoạn văn 150 từ hoặc ít hơn.

Cách viết tổng quan nghiên cứu y học: bước ban đầu trong quy trình

Tổng quan là phần tóm tắt và phân tích các kết quả đã được công bố của một lĩnh vực nghiên cứu cụ thể hoặc một chủ đề nào đó, tổng quan vượt xa khuôn khổ của một bản liệt kê mô tả các sách và bài báo đã xuất bản.

Các loại hình trong nghiên cứu y học

Việc lựa chọn loại hình nghiên cứu là một khía cạnh quan trọng của việc thiết kế các nghiên cứu y học. Thiết kế nghiên cứu và loại nghiên cứu là những yếu tố quyết định chính đến chất lượng khoa học và giá trị.