Phác đồ điều trị viêm phổi do tụ cầu

2024-07-06 11:41 AM

Viêm phổi do tụ cầu là một bệnh nhiễm trùng phổi do vi khuẩn Staphylococcus aureus. Loại viêm phổi này phổ biến hơn ở trẻ nhỏ, đặc biệt là những trẻ đã không khỏe hoặc suy dinh dưỡng.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

 

Viêm phổi do tụ cầu là một bệnh nhiễm trùng phổi do vi khuẩn Staphylococcus aureus, thường được gọi là tụ cầu. Loại viêm phổi này phổ biến hơn ở trẻ nhỏ, đặc biệt là những trẻ đã không khỏe hoặc suy dinh dưỡng. Nó cũng có thể là một biến chứng của bệnh sởi.

Đặc điểm lâm sàng

Dấu hiệu chung: thay đổi tình trạng toàn thân, xanh xao, sốt cao hoặc hạ thân nhiệt, thường có dấu hiệu sốc; có tổn thương da (điểm xâm nhập của vi khuẩn), tuy nhiên, có thể không có tổn thương da.

Các dấu hiệu tiêu hóa: buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng chướng.

Dấu hiệu hô hấp: ho khan, thở nhanh, dấu hiệu khó chịu (mũi phập phồng, lồng ngực lõm). Nghe phổi thường bình thường; đôi khi âm đục cho thấy tràn dịch màng phổi.

Cận lâm sàng

Cận lâm sàng, chẳng hạn như chụp X-quang ngực, có thể cho thấy:

Sự đông đặc nhiều thùy phổi: Điều này có nghĩa là nhiều thùy phổi bị viêm và chứa đầy dịch.

Sủi bọt: Là tình trạng có các túi khí bên trong mô phổi.

U nang khí: Đây là những nang chứa đầy không khí có thể hình thành trong mô phổi.

Tràn khí màng phổi tự phát: Đây là tình trạng phổi bị xẹp xảy ra khi không khí rò từ phổi vào khoảng không giữa phổi và thành ngực.

Điều trị

Viêm phổi do tụ cầu là một bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng cần được điều trị kịp thời.

Nhập viện

Bệnh nhân bị viêm phổi do tụ cầu cần được nhập viện ngay do tình trạng xấu đi nhanh chóng liên quan đến bệnh nhiễm trùng này.

Điều trị bằng kháng sinh

Nếu không thể xác nhận nguyên nhân do tụ cầu hoặc trong khi chờ xác nhận, nên dùng liệu pháp kháng sinh phổ rộng.

Cân nhắc dùng ceftriaxone tiêm bắp (IM) hoặc truyền tĩnh mạch (IV) chậm (ít nhất 3 phút) với liều 50 mg/kg một lần mỗi ngày.

Kết hợp với cloxacillin tiêm tĩnh mạch (60 phút).

Có hướng dẫn điều chỉnh liều dùng cho trẻ sơ sinh và trẻ em dựa trên cân nặng và độ tuổi.

Sau khi cải thiện lâm sàng, chuyển sang dùng amoxicillin/acid clavulanic đường uống để hoàn thành liệu trình từ 10 đến 14 ngày.

Clindamycin thay thế:

Clindamycin tiêm tĩnh mạch có thể thay thế cloxacillin.

Dùng clindamycin liều 10 mg/kg sau mỗi 8 giờ, sau đó chuyển sang dùng clindamycin PO (uống) với liều tương tự.

Kiểm soát sốt

Sử dụng paracetamol (acetaminophen) để kiểm soát sốt.

Bù nước và oxy

Đảm bảo bù nước bằng đường uống, truyền dịch hoặc ống thông dạ dày dựa trên tình trạng lâm sàng của bệnh nhân.

Cung cấp oxy với lưu lượng đủ để duy trì độ bão hòa oxy (SpO2) ≥ 90%.

Các biện pháp tại chỗ

Khử trùng tại chỗ các tổn thương da.

Nếu có tràn dịch màng phổi đáng kể

Đối với tràn khí màng phổi mủ, tiến hành chọc màng phổi có dẫn lưu (đưa 2 ống dẫn lưu, một ống dẫn lưu trước và một ống dẫn lưu sau).

Đối với viêm màng phổi mủ, tiến hành chọc nhiều lần bằng ống thông tĩnh mạch.

Chú thích

Cách dùng Ceftriaxone

Khi dùng ceftriaxone tiêm bắp (IM), điều cần lưu ý là dung môi có chứa lidocaine.

Không bao giờ dùng ceftriaxone pha loãng với dung môi này qua đường tĩnh mạch (IV). Luôn sử dụng nước pha tiêm để tiêm tĩnh mạch.

Chuẩn bị và liều dùng Cloxacillin

Pha bột cloxacillin để tiêm trong 4 ml nước pha tiêm.

Pha loãng mỗi liều cloxacillin:

Trong 5 ml/kg natri clorua 0,9% hoặc glucose 5% cho trẻ em cân nặng dưới 20 kg.

Trong một túi 100 ml natri clorua 0,9% hoặc glucose 5% cho trẻ em nặng 20 kg trở lên và cho người lớn.

Tiêu chí cải thiện

Cải thiện lâm sàng được đánh giá dựa trên một số yếu tố, bao gồm giảm sốt, giảm khó thở, cải thiện độ bão hòa oxy (SpO2) và tăng cảm giác thèm ăn và hoạt động.

Bài viết cùng chuyên mục

Phác đồ điều trị giãn phế quản

Những trường hợp giãn phế quản nặng, vi khuẩn kháng thuốc, thường cần dùng kháng sinh dài ngày hơn, hoặc bội nhiễm do Pseudomonas aeruginosa.

Phác đồ điều trị viêm phế quản mãn tính

Ho trong 3 tháng liên tiếp mỗi năm trong 2 năm liền, không khó thở lúc khởi bệnh, khó thở phát triển sau nhiều năm, trước khi gắng sức.

Phác đồ điều trị tâm phế mạn

Bệnh nhân được chỉ định dùng kháng sinh, thuốc kháng sinh có thể dùng penicillin, ampicillin, amoxilin, amoxilin và acid clavulanic.

Phác đồ điều trị suy hô hấp nặng do bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

Có thể dùng aminophylin 0,24 g pha với 100 ml dịch glucose 5 phần trăm, truyền trong 30 đến 60 phút, sau đó truyền duy trì.

Phác đồ điều trị thiếu máu thiếu sắt

Thiếu máu được định nghĩa là mức độ hemoglobin thấp hơn giá trị tham khảo, nó là một triệu chứng thường gặp ở những vùng nhiệt đới.

Phác đồ điều trị viêm xoang cấp tính

Điều trị kháng sinh là cần thiết trong trường hợp chỉ có viêm xoang do vi khuẩn, nếu không, viêm xoang nặng ở trẻ em có thể gây ra biến chứng nghiêm trọng.

Phác đồ điều trị ho kéo dài

Ho quá nhiều gây mệt nhiều, chưa xác định rõ nguyên nhân, hoặc một số trường hợp đã xác định được nguyên nhân, nhưng không có rối loạn thông khí.

Phác đồ điều trị viêm phế quản cấp

Điều trị kháng sinh được chỉ định khi, bệnh nhân đang trong tình trạng có bệnh nền, suy dinh dưỡng, bệnh sởi, bệnh còi xương, thiếu máu nặng.

Phác đồ điều trị viêm họng cấp tính

Benzathine benzylpenicillin là thuốc cho Streptococcus A, vì kháng vẫn còn hiếm; nó chỉ là kháng sinh hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ mắc bệnh sốt thấp khớp.

Phác đồ điều trị cảm lạnh thông thường

Viêm mũi (viêm niêm mạc mũi) và viêm mũi họng (viêm niêm mạc mũi và họng) nói chung là lành tính, tự giới hạn và thường có nguồn gốc từ virus.

Phác đồ điều trị bệnh ho gà

Ho gà là một bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới rất dễ lây lan, kéo dài, do Bordetella pertussis.

Phác đồ điều trị shock nhiễm khuẩn

Sử dụng dung dịch pha loãng, nghĩa là thêm 1 mg epinephrine với 9 ml natri clorid 0,9 phần trăm để thu được dung dịch 0,1 mg mỗi ml.

Phác đồ điều trị viêm phổi cộng đồng

Thời gian dùng kháng sinh từ 7 đến 10 ngày nếu do các tác nhân gây viêm phổi điển hình, 14 ngày nếu do các tác nhân không điển hình, trực khuẩn mủ xanh.

Phác đồ điều trị viêm tiểu phế quản

Trường hợp nặng có thể xảy ra, trong đó đứa trẻ có nguy cơ do kiệt sức, hoặc nhiễm khuẩn thứ phát, nằm viện là cần thiết khi các dấu hiệu triệu chứng nghiêm trọng.

Phác đồ điều trị viêm phổi ở trẻ em trên 5 tuổi và người lớn

Viêm phổi ở trẻ em trên 5 tuổi và người lớn thực sự có thể do vi-rút, phế cầu khuẩn và Mycoplasma pneumoniae gây ra.

Phác đồ điều trị khó thở

Thông khí nhân tạo không xâm nhập qua mặt nạ nếu có chỉ định, thông khí nhân tạo qua ống nội khi quản mở khí quản, áp dụng cho các trường hợp suy hô hấp nặng.

Phác đồ điều trị viêm xoang cấp

Viêm xoang cấp tính là tình trạng viêm nhiễm của một hoặc nhiều hốc xoang do nhiễm trùng hoặc dị ứng. Hầu hết các bệnh nhiễm trùng xoang cấp tính là do virus và tự khỏi trong vòng 10 ngày.

Phác đồ điều trị viêm tai giữa cấp (AOM)

Điều trị sốt và đau: paracetamol, làm sạch tai bằng dịch là chống chỉ định nếu màng nhĩ bị rách, hoặc không thể quan sát đầy đủ màng nhĩ.

Phác đồ điều trị áp xe phổi

Có thể nội soi phế quản ống mềm để hút mủ ở phế quản, giúp dẫn lưu ổ áp xe, soi phế quản ống mềm còn giúp phát hiện các tổn thương gây tắc nghẽn phế quản.

Phác đồ điều trị shock tim

Digoxin không còn nên sử dụng cho sốc tim, trừ những trường hợp hiếm hoi khi một nhịp tim nhanh trên thất, đã được chẩn đoán bằng điện tâm đồ.

Phác đồ điều trị tràn khí màng phổi

Tràn khí màng phổi áp lực dương nhịp thở trên 30 lần phút, nhịp tim trên 120 lần phút, huyết áp tụt, trung thất bị đẩy lệch về bên đối diện.

Phác đồ điều trị cơn động kinh co giật

Hầu hết các cơn động kinh tự hạn chế một cách nhanh chóng, sử dụng ngay thuốc chống co giật là không đúng phương pháp.

Phác đồ điều trị trạng thái động kinh co giật

Không bao giờ sử dụng phenobarbital bằng cách tiêm tĩnh mạch nhanh, giám sát hô hấp, và huyết áp, đảm bảo rằng hỗ trợ hô hấp.

Phác đồ điều trị bệnh động kinh

Một sự gián đoạn đột ngột của điều trị có thể gây tình trạng động kinh, tỷ lệ giảm liều thay đổi theo thời gian điều trị; thời gian điều trị càng dài, thời gian giảm liều cũng dài.

Phác đồ điều trị viêm nắp thanh quản

Việc kỹ thuật đặt nội khí quản khó khăn, và cần được thực hiện bởi bác sĩ quen thủ thuật, hãy chuẩn bị để thực hiện mở khí quản nếu đặt không thành công.