- Trang chủ
- Phác đồ - Test
- Nguyên lý y học nội khoa
- Phương pháp chẩn đoán bệnh lý hô hấp
Phương pháp chẩn đoán bệnh lý hô hấp
Chụp mạch phổi có thể đánh giá hệ mạch phổi trong trường hợp có huyết khối tĩnh mạch nhưng đã được thay thế bởi CT mạch.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Phương pháp chẩn đoán bệnh hô hấp không xâm lấn
Nghiên cứu về x quang ngực
Xquang ngực (CXR), bao gồm tư thế trước sau và tư thế nghiêng, thường là phương tiện chẩn đoán đầu tay ở các bệnh nhân có các triệu chứng hô hấp. Với một số loại trừ (ví dụ: tràn khí màng phổi), Xquang ngực thường không đủ đặc hiệu để xác định chẩn đoán; thay vì đó Xquang ngực phục vụ cho việc nhận biết bệnh, đánh giá độ ác tính và hướng tới những hướng chẩn đoán xa hơn. Với bệnh phổi lan tỏa, Xquang ngực có thể phát hiện ở mức phế nang, kẽ hoặc nốt. Xquang ngực cũng có thể phát hiện tràn dịch màng phổi và tràn khí màng phổi, cũng như những bất thường về rốn phổi và trung thất. Tư thế nằm nghiêng có thể được sử dụng để ước lượng mức độ tràn dịch màng phổi tự do.
CT ngực được sử dụng rộng rãi để làm sáng tỏ những bất thường trên Xquang ngực. Những ưu điểm của CT ngực so với Xquang ngực bao gồm (1) khả năng phân biệt được các cấu trúc bên trên do có hình ảnh cắt ngang theo vùng. ; (2) đánh giá tỉ trọng của mô, cho phép nhận định chính xác kích thước và tỉ trọng các nốt ở phổi và nhận diện những bất thường liền kề với thành ngực, ví dụ như bệnh màng phổi; (3) với việc tiêm cản quang tĩnh mạch, khả năng phân biệt các cấu trúc thuộc mạch máu và không thuộc mạch máu, điều này đặc biệt hữu ích trong việc đánh giá bất thường ở rốn phổi và trung thất; (4) với CT mạch máu, có thể nhận biết được nhồi máu phổi; và (5) vì các chi tiết có thể nhìn thấy được nên làm tăng sự nhận diện các bệnh nhu mô và đường thở, bao gồm khí phế thũng, giãn phế quản, carcinoma bạch huyết và bệnh phổi kẽ.
Các kĩ thuật chẩn đoán hình ảnh khác ít được sử dụng hơn trong việc đánh giá bệnh hô hấp. Chụp cộng hưởng từ MRI ít được dùng hơn so với CT trong việc đánh giá hệ hô hấp nhưng có thể hữu ích như là một công cụ không có tia xạ để hỗ trợ đánh giá bệnh tim mạch trong lồng ngực và để phân biệt các cấu trúc thuộc mạch máu và không thuộc mạch máu mà không cần tiêm cản quang. Siêu âm không hữu ích trong đánh giá nhu mô, nhưng có thể phát hiện được bất thường về màng phổi và giúp hướng dẫn chọc dịch màng phổi. Chụp mạch phổi có thể đánh giá hệ mạch phổi trong trường hợp có huyết khối tĩnh mạch nhưng đã được thay thế bởi CT mạch.
Hình ảnh y học hạt nhân
Chụp hình sự thông khí - tưới máu phổi có thể được dùng để đánh giá huyết khối ở phổi nhưng đã được thay thế bởi CT mạch. Ghi hình bằng bức xạ positron (PET) là sự đánh giá và phân tích sự chuyển hóa của glucose đã được đánh dấu bức xạ.
Vì các tổn thương ác tính thường tăng hoạt động chuyển hóa, chụp PET, đặc biệt khi kết hợp với CT tạo thành PET/CT, rất hữu dụng khi đánh giá các nốt ở phổi để đánh giá sự ác tính và giai đoạn ung thư phổi. PET bị hạn chế khi tổn thương có đường kính <1 cm; sự sàng lọc sẽ âm tính với những tổn thương có sự chuyển hóa kém, ví dụ như ung thư biểu mô tế bào tiểu phế quản phế nang. Các dấu hiệu dương tính giả trên PET có thể nhận thấy trong trường hợp viêm, ví dụ như viêm phổi.
Xét nghiệm đờm
Đờm có thể có thể lấy được bằng cách khạc tự nhiên, hoặc sau hít hóa chất từ bình phun như hypertonic saline. Đờm được phân biệt với nước dãi bởi sự hiện diện của tế bào biểu mô và đại thực bào phế nang trái ngược với tế bào biểu mô vảy. Xét nghiệm đờm bao gồm sự xem xét có mặt của máu, màu sắc, mùi, cũng như nhuộm Gram và nuôi cấy vi khuẩn thông thường.
Nuôi cấy vi khuẩn từ đờm khạc ra có thể bị nhầm lẫn vì nhiễm hệ vi khuẩn chí từ họng miệng. Bệnh phẩm đờm có thể đánh giá được nhiều nguyên nhân khác, như mycobacteria, nấm và virus. Bệnh phẩm đờm sau khi hít hypertonic saline có thể nhuộm để xác định sự có mặt của Pneumocystis jiroveci. Xét nghiệm tế bào từ bệnh phẩm đờm có thể được áp dụng như một test sàng lọc ban đầu về bệnh ác tính.
Phương pháp chẩn đoán bệnh hô hấp xâm nhập
Nội soi phế quản
Nội soi phế quản là một phương pháp cung cấp cái nhìn trực tiếp cây khí phế quản, đặc biệt là phân mức thứ bậc. Nội soi huỳnh quang được dùng trong hầu hết trường hợp, nhưng nội soi ống cứng lại có giá trị trong các trường hợp đặc biệt, bao gồm trường hợp chảy máu ồ ạt và để loại bỏ dị vật.
Nội soi huỳnh quang ống mềm cho phép quan sát đường thở; nhận diện được các bất thường trong phế quản, bao gồm khối u và vị trí chảy máu; và giúp lấy bệnh phẩm để chẩn đoán bằng cách rửa, chải, sinh thiết. Rửa phế quản nhờ muối saline vô trùng nhỏ giọt qua ống nội soi vào bề mặt tổn thương; một phần saline sẽ quay trở lại qua ống nội sôi và được xét nghiệm tế bào và vi sinh. Chải phế quản có thể chạm tới bề mặt tổn thương phế quản hoặc từ một khối xa hơn hoặc một khối thâm nhiễm (dưới sự hướng dẫn của nội soi huỳnh quang) giúp nghiên cứu về tế bào học và vi sinh học. Kim sinh thiết có thể được dùng để sinh thiết tổn thương trong phế quản hoặc đi xuyên qua nhu mô phế nang quanh phế quản (thường dưới hướng dẫn của nội soi huỳnh quang) để sinh thiết xuyên phế quản với nhu mô phổi ở phía xa hơn. Sinh thiết xuyên phế quản đặc biệt hữu dụng trong chẩn đoán viêm nhiễm lan tỏa, sự lan rộng khối u theo đường bạch mạch và các bệnh u hạt. Các biến chứng của sinh thiết xuyên phế quản bao gồm chảy máu và tràn khí màng phổi.
Rửa phế quản phế nang (BAL) phụ thuộc vào nội soi huỳnh quang, cho phép lấy tế bào và dịch từ khoảng không phía xa. Sau khi đưa ống nội soi vào đường thở, saline sẽ được nhỏ và sau đó quay trở lại ống nội soi để tiến hành phân tích, bao gồm tế bào học, vi sinh và đếm số lượng tế bào.
BAL đặc biệt hữu dụng trong chẩn đoán viêm phổi do P. jiroveci và một vài bệnh viêm nhiễm khác.
Nội soi phế quản lấy bệnh phẩm từ các khu vực gần khí quản hoặc từ các phế quản lớn làm tế bào học đánh giá độ ác tính bao gồm kim chọc hút xuyên phế quản (TBNA). TBNA có thể được hỗ trợ cùng với siêu âm xuyên phế quản (EBUS), cho phép hướng dẫn sự chọc hút các hạch lympho ở rốn phổi và trung thất.
Kim chọc hút phổi qua da
Kim có thể đưa xuyên qua thành ngực và đưa vào tổn thương phổi để lấy bệnh phẩm làm xét nghiệm tế bào học và vi sinh học. Kim chọc hút dưới da thường được dùng dưới sự hướng dẫn của CT. Do kích thước nhỏ của bệnh phẩm lấy được, các lỗi của bệnh phẩm là hạn chế của phương pháp này.
Chọc hút màng phổi
Chọc hút màng phổi nên được sử dụng như là bước đầu tiên trong quá trình đánh giá dịch màng phổi chưa rõ nguyên nhân. Phân tích dịch màng phổi có thể xác định được nguyên nhân của tràn dịch. Chọc hút dịch màng phổi số lượng lớn có thể là liệu pháp điều trị giúp làm giảm khó thở.
Nội soi trung thất
Sinh thiết nhu mô các khối ở trung thất hoặc hạch lympho thường được thực hiện để chẩn đoán ung thư và giai đoạn của ung thư. Nội soi trung thất được thực hiện phía trước xương ức, và ống nội soi cứng được đưa vào để sinh thiết. Hạch lympho ở khu vực phổi- động mạch chủ yêu cầu cần phải mở trung thất cạnh xương ức mới có thể sinh thiết.
Phẫu thuật lồng ngực có video hỗ trợ
Phẫu thuật lồng ngực có video hỗ trợ (VATS), hay còn gọi là nội soi lồng ngực, được sử dụng rộng rãi trong chẩn đoán tổn thương màng phổi cũng như tổn thương thâm nhiễm nhu mô ngoại vi và hạch. VATS, đòi hỏi bệnh nhân chịu được thông khí phổi đơn độc trong suốt thủ thuật, đưa một ống soi cứng cùng camera qua một troca vào khoang màng phổi; thiết bị có thể được đưa vào và thao tác qua lỗ rạch ở khoang liên sườn. VATS đã thay thế “sinh thiết mở” - can thiệp cần phải mở lồng ngực.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh lý màng ngoài tim, nguyên lý nội khoa
Đau ngực, có thể đau dữ dội, làm nhầm lẫn với nhồi máu cơ tim cấp, nhưng có đặc điểm là đau nhói, đau kiểu màng phổi, và thay đổi theo tư thế
Bệnh bạch cầu kinh dòng lympho/u lympho
Thường chỉ định điều trị hỗ trợ cho đến khi xuất hiện thiếu máu hoặc giảm tiểu cầu. Khi đó, các xét nghiệm được chỉ định để tìm nguyên nhân gây thiếu máu hoặc giảm tiểu cầu.
Viêm gan mãn tính: nguyên lý chẩn đoán điều trị
Một số bệnh nhân có xuất hiện các biến chứng xơ gan: cổ trướng, dãn tĩnh mạch chảy máu, bệnh lý não, và lách to.
Chọc dịch màng bụng: nguyên lý nội khoa
Đối với một chọc lớn khối lượng, hệ thống hút trực tiếp vào thùng chứa chân không lớn sử dụng kết nối ống là một lựa chọn thường được sử dụng.
Ung thư da biểu mô tế bào đáy: nguyên lý nội khoa
Loại bỏ tại chỗ bằng electrodesiccation và nạo, cắt bỏ, phẫu thuật lạnh hoặc xạ trị; hiếm khi di căn nhưng có thể lan rộng tại chỗ. Ung thư da biểu mô tế bào đáy gây tử vong là điều rất bất thường.
Ung thư buồng trứng: nguyên lý nội khoa
Không giống như ung thư đại tràng, con đường dẫn đến ung thư buồng trứng là không rõ ràng. Ung thư buồng trứng cũng có thể xảy ra trong hội chứng Lynch.
Vô kinh: rối loạn hệ sinh sản nữ giới
Các nguyên nhân gây vô kinh nguyên phát và thứ phát chồng chéo lên nhau, nên phân loại rối loạn kinh nguyệt gồm rối loạn tại tử cung, đường sinh dục.
Huyết khối tăng đông
Trong bệnh viện thường bắt đầu điều trị chống đông bằng heparin trong 4 đến 10 ngày, duy trì tiếp warfarin sau khi dùng đồng thời 3 ngày. Thời gian điều trị phụ thuộc vào bệnh nền.
Hội chứng tĩnh mạch chủ trên ở bệnh nhân ung thư
Xạ trị là lựa chọn điều trị đới với ung thư phổi không tế bào nhỏ, kết hợp hóa trị với xạ trị có hiệu quả trong ung thư phổi tế bào nhỏ và u lympho.
Chụp cắt lớp vi tính (CT): nguyên lý nội khoa
CT của não là một kiểm tra quan trọng trong việc đánh giá một bệnh nhân với những thay đổi trạng thái tâm thần để loại trừ các thực thể như chảy máu nội sọ, hiệu ứng khối.
Dinh dưỡng qua đường tĩnh mạch: nguyên lý nội khoa
Các nguy cơ của dinh dưỡng đường tĩnh mạch bao gồm các biến chứng cơ học từ chèn ép của ống truyền dịch, nhiễm trùng huyết do catheter, quá tải dịch, tăng đường huyết.
Viêm cột sống dính khớp: nguyên lý chẩn đoán và điều trị
MRI là lựa chọn khi phim x quang không chuẩn bị không cho thấy bất thường khớp cùng-chậu và có thể cho thấy viêm nội khớp sớm, thay đổi sụn.
Nhiễm trùng huyết mà không có ổ nhiễm trùng rõ ràng
Bệnh Tularemia và bệnh dịch hạch có thể gây ra hôi chứng thương hàn hoặc nhiễm trùng huyết với tỷ lệ tử vong khoảng 30 phần trăm và nên được nghĩ đến khi có yếu tố dịch tễ.
Giảm bạch cầu: nguyên lý nội khoa
Ngoài các ổ nhiễm trùng thông thường, cần xem xét các xoang cạnh mũi, khoang miệng gồm cả răng và lợi, vùng hậu môn trực tràng; điều trị kinh nghiệm với các kháng sinh phổ rộng.
Xơ cứng toàn thân (SSC): nguyên lý chẩn đoán điều trị
Xơ cứng toàn thân là một rối loạn đa cơ quan đặc trưng bởi dày da và đặc biệt có sự tham gia của nhiều cơ quan nội tạng.
Bệnh nền tác động đến say độ cao
Bệnh nhân thiếu máu cục bộ tim, nhồi máu trước đó, phẫu thuật mạch, và/ hoặc phẫu thuật bắc cầu nên có bài kiểm tra chạy bộ. Test chạy bộ dương tính mạnh chống chỉ định với độ cao lớn.
Rối loạn giấc ngủ nhịp sinh học
Hội chứng giấc ngủ đến sớm là sự khởi phát ngủ sớm vào ban đêm và thức dậy sớm vào buổi sáng. Liệu pháp ánh sáng mạnh buổi tối trong vài giờ có thể hiệu quả.
Chất hóa học gây độc thần kinh
Biểu hiện lâm sàng của nhiễm độc thần kinh là giống nhau khi phơi nhiễm hai đường hơi và dung dịch. Biểu hiện đầu tiên bao gồm co đồng tử, nhìn mờ đau đầu, và tăng tiết dịch hầu họng.
Viêm khớp dạng thấp: nguyên lý chẩn đoán và điều trị
Một bệnh đa cơ quan mạn tính không rõ nguyên nhân đặc trưng bởi viêm màng hoặt dịch dai dẳng, thường liên quan đến các khớp ngoại biên đối xứng.
Mê sảng: nguyên lý nội khoa
Cách tiếp cận hiệu quả nhất để đánh giá mê sảng cho phép bệnh sử và khám lâm sàng định hướng cận lâm sàng. Không có trình tự đơn giản nào phù hợp với tất cả các bệnh nhân.
Ung thư da biểu mô tế bào vảy: nguyên lý nội khoa
Hay gặp nhất là cắt bỏ tại chỗ và phẫu thuật vi phẫu Mohs; xạ trị một số ca chọn lọc. Bệnh di căn có thể điều trị bằng xạ trị hoặc liệu pháp sinh học kết hợp.
Nhiễm kiềm chuyển hóa: nguyên lý nội khoa
Các loại nhiễm kiềm chuyển hóa thường gặp thường được chẩn đoán dựa vào tiền sử, thăm khám, và/hoặc những xét nghiệm cơ bản. Khí máu động mạch sẽ giúp xác định.
Hạ đường huyết: nguyên lý nội khoa
Hạ đường huyết tái phát làm thay đổi ngưỡng của các triệu chứng thần kinh thực vật và đáp ứng chống điều hòa với mức glucose thấp, dẫn đến mất ý thức do hạ đường huyết.
Nuốt khó: nguyên lý nội khoa
Nuốt khó gần như luôn luôn là triệu chứng của một bệnh cơ quan hơn là một than phiền chức năng. Nếu nghi ngờ nuốt nghẹn hầu, soi huỳnh quang có quay video khi nuốt có thể giúp chẩn đoán.
Đỏ mắt hoặc đau mắt
Mất thị lực đột ngột hoặc nhìn đôi ở những trường hợp mắt không bị đau và không bị viêm thường là các rối loạn thị giác hoặc thần kinh nghiêm trọng và nên được theo dõi chặt chẽ.