- Trang chủ
- Phác đồ - Test
- Nguyên lý y học nội khoa
- Bệnh phổi do môi trường: nguyên lý nội khoa
Bệnh phổi do môi trường: nguyên lý nội khoa
Khí dạng hòa tan trong nước như ammonia được hấp thụ ở đường thở trên và gây kích thích và co phế quản phản ứng, trong khi khí ít hòa tan trong nước.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Khả năng phát triển các bệnh về phổi phụ thuộc vào các yếu tố của môi trường. Chương này sẽ tập trung vào sự phơi nhiễm nghề nghiệp và các chất hóa học độc hại. Tuy nhiên, rất nhiều sự phơi nhiễm ngoài trời không liên quan tới nghề nghiệp như khói thuốc lá (ung thư phổi), khí radon (ung thư phổi), và khói bếp (COPD) cũng nên được xem xét. Kích thước của các hạt là yếu tố quan trọng tác động vào sự phơi nhiễm từ môi trường vào hệ hô hấp. Các hạt đường kính >10 μm được bắt giữ bởi đường hô hấp trên. Các hạt đường kính 2.5–10 μm sẽ lắng đọng tại cây khí phế quản phía trên, trong khi các hạt nhỏ hơn (bao gồm các hạt nano) sẽ đi tới phế nang.
Khí dạng hòa tan trong nước như ammonia được hấp thụ ở đường thở trên và gây kích thích và co phế quản phản ứng, trong khi khí ít hòa tan trong nước (ví dụ, phosgene) có thể đi tới phế nang và gây viêm phổi cấp nguy kịch do chất hóa học.
Tiếp cận bệnh nhân bệnh phổi môi trường
Do có nhiều loại bệnh phổi nghề nghiệp (pneumoconio-sis) có thể tương tự với các bệnh không rõ sự liên quan tới các yếu tố môi trường, việc khai thác tiền sử nghề nghiệp một cách cẩn thận là điều cần thiết. Với nhiều loại nghề nghiệp, phơi nhiễm với môi trường đặc biệt, việc sử dụng các thiết bị bảo vệ đường thở và sự thông khí trong môi trường làm việc có thể mang lại những thông tin quan trọng. Đánh giá sự phát triển theo thời gian của các triệu chứng liên quan tới công việc của người bệnh cũng rất hữu ích.
Xquang ngực hữu ích trong việc đánh giá bệnh phổi nghề nghiệp, nhưng nó có thể đánh giá quá mức hoặc đánh giá thấp vài trò tác động của bệnh bụi phổi. Kiểm tra chức năng phổi nên được tiến hành để đánh giá mức độ tổn thương, nhưng chúng không gợi ý chẩn đoán đặc hiệu. Sự thay đổi trong hô hấp kế trước và sau khi thay đổi công việc có thể mang lại bằng chứng rõ ràng về sự co thắt phế quản khi nghi ngờ bệnh hen do nghề nghiệp. Một số phương pháp giúp phân biệt các bệnh phổi nghề nghiệp; Xquang ngực được sử dụng rộng rãi, và CT ngực có thể đưa lại những đánh giá chi tiết hơn.
Bụi vô cơ- phơi nhiễm nghề nghiệp và bệnh phổi nghề nghiệp
Bệnh phổi liên quan đến Amiăng
Sự phơi nhiễm amiăng có thể xảy ra trong suốt quá trình sản xuất amiăng (từ khai thác đến sản xuất), thường thì sự phơi nhiễm amiăng xảy ra ở nghề đóng tàu và các việc xây dựng khác (ví dụ, đặt ống dẫn nước, công nghiệp xanh chảo) và trong sản xuất quần áo bảo hộ và vật liệu ma xát (ví dụ, phanh xe và côn). Bên cạnh sự phơi nhiễm ở những khu vực này, phơi nhiễm ở bên ngoài (ví dụ, vợ chồng) có thể là nguyên nhân của bệnh phổi liên quan đến amiăng.
Một số bệnh hô hấp có liên quan đến phơi nhiễm amiăng. Sự xơ cứng màng phổi ám chỉ đã có tình trạng nhiễm amiăng xảy ra, nhưng chúng không phải là triệu chứng. Bệnh phổi kẽ thường liên quan tới nhiễm amiăng, về bệnh học và nguyên nhân thì giống với bệnh xơ phổi tự phát; nó thường được đi kèm bởi tình trạng giảm thông khí hạn chế cùng với giảm khả năng khuếch tán khí CO (Dlco) qua xét nghiệm chức năng phổi. Bệnh phổi do amiăng có thể phát triển sau 10 năm phơi nhiễm, và không có phương pháp điều trị đặc hiệu.
Tràn dịch màng phổi lành tính có thể xảy ra sau nhiễm amiăng. Ung thư phổi rất có liên quan tới nhiễm amiăng, nhưng lại không có biểu hiện rõ ràng trong ít nhất 15 năm sau khi nhiễm lần đầu tiên. Ung thư phổi lành tính có thể xuất hiện sau nhiễm amiăng. Ung thư phổi hoàn toàn có liên quan tới nhiễm amiăng, nhưng không có biểu hiện trong ít nhất 15 năm kể từ lần nhiễm đầu tiên. Nguy cơ ung thư phổi tăng lên nhiều lần khi hút thuốc lá. Thêm nữa, u trung biểu mô (cả màng phổi và màng bụng) đều liên quan tới nhiễm mesothe-liomas, nhưng lại không liên quan tới hút thuốc.
Việc nhiễm mesothe-liomas trong thời gian ngắn cũng có thể dẫn tới u trung biểu mô, bệnh này không phát triển sau lần nhiễm đầu tiên trong cả thập kỉ. Sinh thiết màng phổi, đặc biệt là khi phẫu thuật mở lồng ngực, là điều bắt buộc để chẩn đoán u trung biểu mô.
Bệnh bụi phổi Silic - Silicosis
Bệnh bụi phổi silic có nguyên nhân từ nhiễm silic tự do (thạch anh pha lê - crystalline quartz), xuất hiện trong nghề mỏ, cắt đá, công nghiệp mài (ví dụ: đá, đất sét, thủy tỉnh, và sản xuất ximăng), lò đúc và khai thác đá. Phơi nhiễm số lượng lớn trong thời gian ngắn (khoảng 10 tháng) có thể gây nên bệnh bụi phổi silic cấp, về bệnh học giống với bệnh tích protein phế nang và liên quan tới đặc điểm trên CT ngực có tên là “crazy paving”.
Bệnh bụi phổi silic cấp có thể nặng và không ngừng tiến triển, trong khi rửa phổi có thể là phương pháp điều trị hiệu quả.
Nhiễm silic trong thời gian dài có thể gây nên bệnh silicosis đơn thuần, với hình cản quang dạng vòng nhỏ tại thùy trên của phổi. Sự vôi hóa các hạch ở rốn phổi có thể mang tới hình ảnh “vỏ trứng” đặc trưng. Xơ hóa hạch tiến triển trong bệnh silicosis phức tạp có thể gây nên khối có đường kính > 1cm. Khi các khối như vậy trở nên lớn hơn, thuật ngữ xơ hóa dạng khối tiến triển được sử dụng để diễn tả nguyên nhân. Vì suy giảm miễn dịch qua trung gian tế bào, bệnh nhân silicosis có nguy cơ cao bị lao phổi, nhiễm các mycobacteria không điển hình và nấm phổi. Silic cũng có thể gây nên ung thư phổi.
Bệnh nụi phổi do khai thác than-Coal Worker’s Pneumoconiosis (CWP)
Phơi nhiễm bụi than do nghề nghiệp dẫn tới bệnh CWP, ít gặp ở các công nhân khai thác than tại phía tây nước Mỹ vì nguy cơ từ nhựa than rải đường ở khu vực này là tương đối thấp. CWP đơn thuần được định nghĩa về mặt xquang là các nốt cản quang nhỏ và không điển hình; tuy nhiên, lại dẫn đến nguy cơ cao COPD. Sự phát triển thành các nốt lớn hơn (đường kính > 1cm), thường ở thùy trên, là đặc trưng của CWP phức tạp. CWP phức tạp thường có triệu chứng điển hình và đi kèm với suy giảm chức năng phổi và tăng tỉ lệ tử vong.
Ngộ độc Beryllium
Nhiễm beryllium có thể xảy ra trong sản xuất hợp kim, gốm, và thiết bị điện.
Nhiễm beryllium cấp hiếm khi gây nên viêm phổi cấp, nhưng lại hay gây ra bệnh u hạt mạn tính rất giống với sarcoidosis. Về mặt Xquang, nhiễm beryllium mạn, như sarcoidosis, đặc trưng bởi các nốt ở cạnh vách. Trong bệnh sarcoidosis, thông khí tắc nghẽn, thông khí hạn chế, giảm Dlco khi xét nghiệm chức năng phổi đều có thể gặp. Nội soi phế quản sinh thiết xuyên phế quản là điều cần thiết để chẩn đoán bệnh nhiễm beryllium mạn. Cách tốt nhất để phân biệt bệnh nhiễm beryllium mạn với sarcoidosis là đánh giá sự quá mẫn muộn với beryllium qua xét nghiệm tăng sinh lympho trong máu hoặc qua rửa phế quản. Loại bỏ sự nhiễm beryllium là cần thiết, và corticosteroid có thể được chỉ định.
Bụi hữu cơ - phơi nhiễm nghề nghiệp và bệnh phổi nghề nghiệp
Bụi Cotton (bệnh bụi phổi bông - Byssinosis)
Nhiễm bụi xảy ra trong quá trình sản xuất sởi chỉ trong dệt may. Vào giai đoạn sớm của bệnh, tức ngực xảy ra vào lúc cuối ngày làm việc đầu tiên trong tuần. Ở các trường hợp nặng hơn, các triệu chứng còn biểu hiện trong suốt cả tuần làm việc. Sau ít nhất 10 năm phơi nhiễm, tắc nghẽn đường thở mạn tính có thể xảy ra. Ở những cá nhân đã có triệu chứng thì việc hạn chế phơi nhiễm là cần thiết.
Bụi hạt
Nông dân và những người trồng lúa có nguy cơ cao bị bệnh phổi liên quan đến bụi hạt, gần giống với bệnh COPD. Triệu chứng gồm ho xuất tiết, wheezing, và khó thở. Kiểm tra chức năng phổi thấy tắc nghẽn đường thở.
Bệnh phổi của người nông dân
Phơi nhiễm với nấm mốc có chứa actinomycete ưa nhiệt có thể dẫn tới sự tiến triển của bệnh viêm phổi quá mẫn. Trong vòng 8h đầu sau nhiễm, các biểu hiện cấp gồm sốt, ho và khó thở. Nếu tái nhiễm sẽ tiến triển thành bệnh phổi kẽ mạn tính.
Chất độc hóa học
Nhiều chất độc hóa học có thể gây bệnh ở phổi dưới dạng hơi nước và khí. Ví dụ, hít phải khói có thể gây chết người ở lính cứu hỏa và nạn nhân qua nhiều cơ chế khác nhau. any toxic chemicals can affect the lung in the form of vapors and gases. Ngộ độc CO có thể gây hạ oxy máu trầm trọng tới mức đe dọa sự sống. Đốt cháy nhựa và polyurethane làm giải phóng các chất độc trong đó có cyanide. Bệnh hen nghề nghiệp có nguyên nhân từ sự phơi nhiễm với diisocyanates có ở trong polyurethane và acid anhydride có ở trong epoxide. Khí radon, được giải phóng từ vật chất trong đất và chủ yếu trong xây dựng, là yếu tố nguy cơ của ung thư phổi.
Điều trị bệnh phổi do môi trường
Điều trị bệnh phổi do môi trường bao gồm việc hạn chế hoặc tránh phơi nhiễm với các chất độc. Bệnh phổi kẽ mạn tính (ví dụ: bệnh phổi do amiăng, CWP) không đáp ứng với glucocorticoid, nhưng phơi nhiễm cấp tính với bụi hữu cơ có thể đáp ứng với corticosteroid. Điều trị bệnh hen nghề nghiệp (ví dụ: diisocyanate) phải tuân theo hướng dẫn điều trị hen thông thường, và điều trị COPD nghề nghiệp (ví dụ, byssinosis) phải tuân theo hướng dẫn điều trị COPD thông thường.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm túi mật mãn: nguyên lý nội khoa
Có thể không có triệu chứng trong nhiều năm, có thể tiến triển thành bệnh túi mật hoặc viêm túi mật cấp, hoặc xuất hiện biến chứng.
Bệnh tế bào mast hệ thống
Biểu hiện lâm sàng của bệnh tế bào mast hệ thống là do sự lấn chiếm mô của các khối tế bào mast, phản ứng của mô
Đau ngực: nguyên lý nội khoa
ECG quan trọng trong đánh giá ban đầu để nhanh chóng phân biệt bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên, bệnh nhân cần được điều trị tái tưới máu ngay lập tức.
Ung thư da biểu mô tế bào đáy: nguyên lý nội khoa
Loại bỏ tại chỗ bằng electrodesiccation và nạo, cắt bỏ, phẫu thuật lạnh hoặc xạ trị; hiếm khi di căn nhưng có thể lan rộng tại chỗ. Ung thư da biểu mô tế bào đáy gây tử vong là điều rất bất thường.
Hội chứng tĩnh mạch chủ trên ở bệnh nhân ung thư
Xạ trị là lựa chọn điều trị đới với ung thư phổi không tế bào nhỏ, kết hợp hóa trị với xạ trị có hiệu quả trong ung thư phổi tế bào nhỏ và u lympho.
Tiếp cận bệnh nhân đau: nguyên lý nội khoa
Đau xuất chiếu là do sự hội tụ của các điểm nhận cảm đau từ và tạng trên một dây thần kinh nhất định được truyền đến não. Bởi vì các sự hội tụ này, đầu vào từ những cấu trúc sâu hoặc từ các vùng của da.
Tiếp cận bệnh nhân sốc: nguyên lý nội khoa
Mặc dù hạ huyết áp thì thường thấy được trong sốc, nhưng không có một ngưỡng huyết áp riêng nào để xác định được sốc. Sốc có thể là do giảm lưu lượng máu.
Mất ngôn ngữ: nguyên lý nội khoa
Mặc dù các lời nói nghe có vẻ đúng ngữ pháp, hài hòa và trôi chảy, nhưng hầu như là không hiểu được do lỗi về cách dùng từ, cấu trúc, thì và có các lỗi loạn dùng từ ngữ.
Hạ thận nhiệt: nguyên lý nội khoa
Nhiễm lạnh cấp gây nhịp tim nhanh, tăng cung lượng tim, co mạch ngoại biên và tăng kháng lực mạch máu ngoại biên, thở nhanh, tăng trương lực cơ vân, run lạnh và loạn vận ngôn.
Sinh lý bệnh cơ quan dẫn truyền cảm giác đau
Tác nhân thay đổi cảm nhận đau hoạt động bằng cách giảm viêm ở mô, can thiệp vào con đường dẫn truyền đau, hoặc làm dịu thần kinh.
Ve cắn và liệt do ve
Trong khi ve hút máu ký chủ, thì các chất tiết của nó cũng có thể gây ra các phản ứng tại chỗ, truyền nhiều tác nhân gây bệnh, dẫn đến các bệnh lý gây sốt hoặc liệt.
Nuốt nghẹn: nguyên lý nội khoa
Xem xét điều trị thử thuốc chống trào ngược, nếu không đáp ứng, theo dõi pH thực quản lưu động 24 giờ, nếu âm tính, đo áp lực thực quản có thể biết được rối loạn vận động.
Ngất: nguyên lý nội khoa
Các rối loạn khác phải được phân biệt với ngất, bao gồm động kinh, thiếu máu động mạch sống nền, hạ oxy máu, và hạ đường huyết.
Biến chứng nhồi máu cơ tim ST chênh lên
Vỡ vách liên thất và hở van hai lá cấp do thiếu máu, nhồi máu cơ nhú xảy ra trong tuần đầu tiên sau nhồi máu và có đặc điểm là suy tim sung huyết cấp với âm thổi mới xuất hiện.
Động kinh: nguyên lý nội khoa
Các nguyên nhân chủ yếu của GCSE là không sử dụng đúng hoặc cai thuốc chống động kinh, các rối loạn chuyển hóa, ngộ độc thuốc, nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương.
Bạch cầu cấp dòng tủy: nguyên lý nội khoa
Các yếu tố kích thích dòng có ít hoặc không có lợi ích, một số khuyến cáo sử dụng ở những bệnh nhân lớn tuổi và những người có nhiễm trùng hoạt động
Tắc nghẽn đường tiết niệu: nguyên lý nội khoa
Trong số bệnh nhân bệnh nặng hơn, tắc nghẽn niệu quản do u là phổ biến nhất và liên quan đến nguyên nhân gây tắc nghẽn đường tiết niệu.
Phương tiện hình ảnh học thần kinh
Xuất hiện nhiều kĩ thuật can thiệp hình ảnh học thần kinh bao gồm tắc mạch, coiling, và đặt stent mạch máu cũng như can thiệp cột sống như chụp đĩa gian đốt sống.
Tình trạng tăng thẩm thấu tăng đường huyết: nguyên lý nội khoa
Thiếu insulin tương đối và không đủ lượng dịch nhập là nguyên nhân chính của HHS. Tăng đường huyết gây lợi niệu thẩm thấu dẫn đến giảm thể tích nội mạch tuyệt đối.
Viêm tai giữa: nguyên lý nội khoa
Hầu hết các trường hợp nhẹ đến trung bình khỏi bệnh trong vòng 1 tuần mà không cần điều trị đặc hiệu, giảm các triệu chứng bằng các thuốc giảm đau.
Một số bệnh làm giảm lưu lượng động mạch ngoại vi
Heparin truyền tĩnh mạch được sử dụng nhằm ngăn ngừa lan tràn huyết khối. Trong trường hợp nhồi máu nặng, cấp tính, lấy huyết khối nội mạch.
Bệnh Wilson: nguyên lý chẩn đoán điều trị
Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán là mức độ đồng cao khi sinh thiết gan, Xét nghiệm di truyền thường không được làm vì rất nhiều loại đột biến.
Xuất huyết khoang dưới nhện: nguyên lý nội khoa
Đau đầu dữ dội, đột ngột thường kèm mất tri giác tạm thời lúc khởi phát; thường có nôn ói. Chảy máu có thể gây tổn thương mô não kế bên và gây khiếm khuyết thần kinh khu trú.
Bệnh sỏi thận: nguyên lý nội khoa
Sỏi bể thận có thể không có triệu chứng hoặc gây đái máu đơn thuần, tắc nghẽn có thể xảy ra ở bất cứ vị trí nào dọc theo đường tiết niệu.
Tăng áp lực tĩnh mạch cửa: nguyên lý chẩn đoán điều trị
Biến chứng chính của tăng áp lực tĩnh mạch cửa là giãn tĩnh mạch thự quản dạ dày kèm xuất huyết, cổ trướng, tăng hoạt lách, bệnh não gan.