Noxafil

2016-10-11 10:59 PM

Các phát hiện về dược động học tổng quát qua chương trình lâm sàng trên cả người tình nguyện khỏe mạnh và bệnh nhân đều nhất quán, cho thấy posaconazol được hấp thu chậm.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhà sản xuất

Merck Sharp & Dohme.

Thành phần

Mỗi mL: Posaconazol 40mg.

Mô tả

Hỗn dịch uống màu trắng, hương vị anh đào, phóng thích nhanh.

Cơ chế tác dụng

Posaconazol là thuốc ức chế mạnh enzyme lanosterol 14α-demethylase là enzyme xúc tác một bước quan trọng trong quá trình sinh tổng hợp ergosterol.

Dược động học

Giới thiệu chung

Các phát hiện về dược động học tổng quát qua chương trình lâm sàng trên cả người tình nguyện khỏe mạnh và bệnh nhân đều nhất quán, cho thấy posaconazol được hấp thu chậm và thải trừ chậm với thể tích phân bố rộng rãi. Thêm vào đó, hiện tượng hấp thu bị giới hạn theo liều của posaconazol 800mg/ngày được quan sát ở cả người tình nguyện khỏe mạnh và bệnh nhân.

Mức độ phơi nhiễm với posaconazol sau khi dùng hỗn dịch uống 400mg, 2 lần/ngày cao hơn 3 lần ở những người tình nguyện khỏe mạnh so với ở bệnh nhân, không có các phát hiện thêm về an toàn ở các nồng độ cao hơn.

Hấp thu

Hỗn dịch uống posaconazol được hấp thu với trung vị thời gian đạt được nồng độ cao nhất trong huyết tương (tmax) là 3 giờ (ở bệnh nhân) và 5 giờ (ở người tình nguyện khỏe mạnh). Dược động học của hỗn dịch uống posaconazol là tuyến tính sau khi dùng đơn liều và đa liều lên đến 800mg. Không quan sát thấy tăng thêm mức tiếp xúc khi dùng các liều hỗn dịch uống cao hơn 800mg/ngày đối với bệnh nhân và người tình nguyện khỏe mạnh. Không có ảnh hưởng nào của độ pH thay đổi trên sự hấp thu của hỗn dịch uống posaconazol.

Khi chia tổng liều hỗn dịch uống posaconazol hàng ngày (800mg) thành 400mg, 2 lần/ngày. Kết quả dẫn đến mức tiếp xúc là 184% cao hơn so với khi sử dụng 1 lần/ngày ở bệnh nhân.

Ảnh hưởng của thức ăn đến sự hấp thu đường uống ở người tình nguyện khỏe mạnh: AUC của hỗn dịch uống posaconazol cao hơn khoảng 2,6 lần khi dùng với bữa ăn không chứa chất béo hoặc chất bổ sung dinh dưỡng (14g chất béo) và cao hơn khoảng 4 lần khi dùng với bữa ăn nhiều chất béo (khoảng 50g chất béo) so với ở tình trạng đói. Nên dùng hỗn dịch uống posaconazol cùng với thức ăn hoặc chất bổ sung dinh dưỡng.

Phân bố

Hỗn dịch uống posaconazol có thể tích phân bố biểu kiến lớn (1,774 lít) cho thấy sự thâm nhập mạnh vào các mô ngoại biên.

Posaconazol gắn kết cao với protein (> 98%), chủ yếu với albumin huyết thanh.

Chuyển hóa: Posaconazol không có bất kỳ chất chuyển hóa chính nào trong tuần hoàn và nồng độ của nó cũng ít bị thay đổi bởi các thuốc ức chế enzyme CYP450. Trong số các chất chuyển hóa trong tuần hoàn, đa số là các chất liên hợp glucuronide của posaconazol và chỉ quan sát thấy một lượng nhỏ chất chuyển hóa oxy hóa (qua trung gian CYP450). Các chất chuyển hóa được đào thải qua nước tiểu và phân chiếm khoảng 17% liều dùng được đánh dấu phóng xạ.

Thải trừ

Hỗn dịch uống posaconazol được đào thải chậm với thời gian bán thải trung bình (t1/2) là 35 giờ (từ 20-66 giờ) và độ thanh thải toàn thân biểu kiến (CI/F) là 32 lít/giờ. Posaconazol bài tiết phần lớn qua phân (77% của liều đánh dấu phóng xạ) với thành phần chính thải trừ như thuốc gốc (66% của liều đánh dấu phóng xạ). Phần nhỏ thuốc được thanh thải qua thận với 14% của iều đánh dấu phóng xạ (< 0,2% liều đánh dấu phóng xạ là thuốc gốc). Trạng thái ổn định đạt được sau 7 đến 10 ngày dùng đa liều.

Các nhóm đối tượng đặc biệt

+ Trẻ em: Sau khi dùng hỗn dịch uống posaconazol 800mg/ngày chia nhiều lần để điều trị nhiễm nấm xâm lấn, nồng độ đáy trung bình trong huyết tương ở 12 bệnh nhân từ 8-17 tuổi (776ng/ml) là tương tự như nồng độ ở 194 bệnh nhân từ 18-64 tuổi (817ng/ml). Chưa có dữ liệu dược động học cho bệnh nhi dưới 8 tuổi. Tương tự như vậy, trong các nghiên cứu về điều trị dự phòng, nồng độ trung bình của posaconazol ở trạng thái ổn định (Cav) ở 10 thiếu niên (13-17 tuổi) tương đương với Cav đạt được ở người lớn (≥ 18 tuổi).

+ Giới tính: Dược động học của posaconazol tương đương ở nam và nữ. Không cần điều chỉnh liều Noxafil theo giới tính.

+ Người cao tuổi: Đã quan sát thấy tăng Cmax (26%) và AUC (29%) ở các đối tượng cao tuổi (24 đối tượng ≥ 65 tuổi) được điều trị bằng hỗn dịch uống posaconazol so với các đối tượng trẻ hơn (24 đối tượng từ 18-45 tuổi). Tuy nhiên, trong một phân tích về dược động học theo nhóm đối tượng (Nghiên cứu 1899), tuổi tác không ảnh hưởng đến dược động học của hỗn dịch uống posaconazol. Hơn nữa, trong các thử nghiệm về hiệu quả lâm sàng, hồ sơ an toàn của hỗn dịch uống posaconazol ở bệnh nhân cao tuổi tương tự như ở người trẻ tuổi. Vì vậy không cần điều chỉnh liều theo tuổi.

+ Chủng tộc: Kết quả từ một nghiên cứu đa liều trên những người tình nguyện khỏe mạnh (n=56) cho thấy chỉ có sự giảm nhẹ (16%) về AUC và Cmax của hỗn dịch uống posaconazol ở người da đen so với người da trắng, không cần điều chỉnh liều theo chủng tộc.

+ Suy thận: Sau khi dùng liều đơn ở bệnh nhân suy thận nhẹ và trung bình (n=18, độ thanh thải creatinine (Clcr) ≥ 20ml/phút/1,73m2), không ảnh hưởng đến dược động học của posaconazol, vì vậy không cần điều chỉnh liều. Ở các đối tượng bị suy thận nặng (n=6, độ thanh thải creatinine (Clcr) < 2 ml/phút/1,73m2), mức tiếp xúc posaconazol biến thiên cao [hệ số biến thiên (CV) 96%] so với mức tiếp xúc ở các nhóm bệnh nhân thận khác [hệ số biến thiên (CV) 40%]. Tuy nhiên, vì posaconazol không đào thải đáng kể qua thận nên dược động học của posaconazol không được dự kiến bị ảnh hưởng bởi suy thận nặng và không khuyến cáo điều chỉnh liều. Posaconazol không bị loại bỏ bằng thẩm phân máu.

+ Suy gan: Ở một nhóm nhỏ đối tượng nghiên cứu bị suy gan (n=12) (Child-Pugh loại A, B hoặc C), các trị số Cmax thường giảm cùng với mức độ nặng của rối loạn chức năng gan (545ng/ml đối với nhóm suy gan nhẹ, 414ng/ml đối với nhóm suy gan trung bình và 347ng/ml đối với nhóm suy gan nặng) mặc dù các trị số Cmax (trung bình 508ng/ml) đối với các đối tượng bình thường phù hợp với các thử nghiệm trước đây trên những người tình nguyện khỏe mạnh. Ngoài ra, sự tăng thời gian bán hủy cũng liên quan với giảm chức năng gan (26,6 giờ đối với nhóm suy gan nhẹ, 35,3 giờ đối với nhóm suy gan trung bình và 46,1 giờ đối với nhóm suy gan nặng), vì tất cả các nhóm đều có các trị số thời gian bán hủy dài hơn so với các đối tượng có chức năng gan bình thường (22,1 giờ). Do dữ liệu dược động học hạn chế ở những bệnh nhân suy gan, không có khuyến cáo điều chỉnh liều nào có thể được đề xuất.

Chỉ định/Công dụng

Hỗn dịch uống Noxafil được chỉ định để điều trị các trường hợp nhiễm nấm sau ở bệnh nhân từ 13 tuổi trở lên.

Nhiễm Candida vùng hầu họng, bao gồm cả những bệnh nhân kháng trị với itraconazole và fluconazole. Kháng trị được định nghĩa là sự tiến triển của tình trạng nhiễm trùng hay tình trạng không cải thiện sau tối thiểu 7 ngày điều trị với liều điều trị kháng nấm hiệu quả.

Nhiễm nấm Aspergillus xâm lấn ở những bệnh nhân mắc bệnh kháng trị với amphotericin B, itraconazole hoặc voriconazole hoặc ở bệnh nhân không dung nạp những thuốc này. Kháng trị được định nghĩa là nhiễm nấm tiến triển hoặc không cải thiện sau tối thiểu 7 ngày điều trị trước đó với các liều điều trị của liệu pháp kháng nấm có hiệu quả.

Bệnh nấm Candida thực quản hoặc nhiễm nấm Candida huyết ở những bệnh nhân mắc bệnh kháng trị với amphotericin B, fluconazole hoặc itraconazole hoặc ở bệnh nhân không dung nạp những thuốc này. Kháng trị được định nghĩa là nhiễm nấm tiến triển hoặc không cải thiện sau một thời gian điều trị tối thiểu (nhiễm nấm huyết dai dẳng: 3 ngày; nhiễm nấm không vào máu: 7 ngày; bệnh nấm Candida thực quản: 14 ngày) với các liều điều trị của liệu pháp kháng nấm có hiệu quả.

Nhiễm nấm Fusarium, nhiễm nấm Zygomycetes, bệnh nấm Cryptococcus, bệnh nấm màu và u nấm ở những bệnh nhân mắc bệnh kháng trị với các thuốc khác hoặc những bệnh nhân không dung nạp với các thuốc khác.

Bệnh nấm Coccidioides immitis. Bệnh nấm Coccidioides immitis đã thất bại hoặc không dung nạp với các thuốc chống nấm khác.

Noxafil dạng hỗn dịch uống cũng được chỉ định điều trị dự phòng các trường hợp nhiễm nấm xâm lấn bao gồm cả nấm men và nấm mốc ở bệnh nhân từ 13 tuổi trở lên, bệnh nhân có nguy cơ cao phát triển các nhiễm nấm này như bệnh nhân giảm bạch cầu trung tính kéo dài, bệnh nhân nhận ghép tế bào gốc hệ tạo máu (HSCT).

Liều lượng & Cách dùng

Hỗn dịch uống Noxafil nên dùng với bữa ăn hoặc với 240 mL chất bổ sung dinh dưỡng. Phải lắc kỹ hỗn dịch uống trước khi dùng.

Liều lượng & Cách dùng

Tăng tổng liều hỗn dịch uống mỗi ngày trên 800 mg không tăng thêm mức tiếp xúc với Noxafil.

Sử dụng ở bệnh nhân suy thận: Không cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân suy giảm chức năng thận và posaconazol không được bài tiết đáng kể qua thận, suy thận nặng được cho là không ảnh hưởng đến dược động học của posaconazol nên không khuyến cáo điều chỉnh liều.

Sử dụng ở bệnh nhân suy gan: Dữ liệu dược động học ở bệnh nhân suy gan còn hạn chế, vì vậy không có khuyến cáo điều chỉnh liều nào có thể được đề xuất. Ở một số lượng nhỏ đối tượng nghiên cứu bị suy gan, đã có sự tăng mức tiếp xúc và thời gian bán hủy cùng với giảm chức năng gan.

Sử dụng ở bệnh nhi: Độ an toàn và hiệu quả ở thanh thiếu niên và trẻ em dưới 13 tuổi chưa được xác định.

Cảnh báo

Quá mẫn: Không có thông tin về nhạy cảm chéo giữa posaconazol và các thuốc chống nấm nhóm azole khác. Nên thận trọng khi kê đơn posaconazol cho những bệnh nhân quá mẫn với các thuốc nhóm azole khác.

Độc tính với gan: Đã có một ít các trường hợp về các phản ứng ở gan trong các thử nghiệm lâm sàng (như tăng nhẹ đến trung bình về ALT, AST, phosphatase kiềm, bilirubin toàn phần và/hoặc viêm gan trên lâm sàng). Tăng các xét nghiệm chức năng gan thường có thể hồi phục khi ngừng điều trị và trong một vài trường hợp các xét nghiệm này trở về bình thường mà không cần ngừng điều trị. Trong trường hợp hiếm gặp, đã có báo cáo phản ứng ở gan nặng hơn (kể cả trường hợp tiến triển dẫn đến tử vong) ở những bệnh nhân có các tình trạng nội khoa nghiêm trọng từ trước (như bệnh máu ác tính) trong thời gian điều trị bằng posaconazol.

Kéo dài khoảng QT: Một số thuốc nhóm azole có liên quan với sự kéo dài khoảng QT. Kết quả từ nhiều phân tích điện tâm đồ theo thời gian ở những người tình nguyện khỏe mạnh không cho thấy bất kỳ sự gia tăng nào về giá trị trung bình của khoảng QTc. Tuy nhiên, không nên dùng posaconazol với những thuốc đã biết kéo dài khoảng QTc và được chuyển hóa qua CYP3A4.

Các rối loạn điện giải, đặc biệt là liên quan đến nồng độ kali, magiê hoặc calci cần được theo dõi và điều chỉnh khi cần thiết trước khi bắt đầu và trong thời gian điều trị bằng posaconazol.

Tác động trên khả năng lái xe và vận hành máy móc: Chưa tiến hành nghiên cứu về tác động của posaconazol trên khả năng lái xe và vận hành máy móc. Do một số phản ứng phụ (như chóng mặt, buồn ngủ, v.v...) đã được báo cáo khi dùng posaconazol, có khả năng ảnh hưởng đến khả năng lái xe/vận hành máy móc, cần thận trọng khi sử dụng.

Quá liều

Trong các thử nghiệm lâm sàng, một số bệnh nhân đã được điều trị bằng hỗn dịch uống posaconazol với liều lên đến 1600mg/ngày mà không ghi nhận các tác dụng phụ khác biệt so với bệnh nhân dùng liều thấp hơn. Ngoài ra, đã ghi nhận quá liều do vô ý ở một bệnh nhân dùng hỗn dịch uống posaconazol 1200mg, 2 lần/ngày trong 3 ngày. Nhà nghiên cứu không ghi nhận được tác dụng phụ liên quan nào.

Không loại bỏ được posaconazol bằng thẩm phân máu.

Chống chỉ định

Ở những bệnh nhân đã biết quá mẫn với posaconazol hoặc bất kỳ thành phần nào của thuốc.

Mặc dù chưa được nghiên cứu in vitro hoặc in vivo, chống chỉ định dùng đồng thời các cơ chất của CYP3A4 như terfenadine, astemizole, cisapride, pimozide hoặc quinidine với posaconazol vì điều này có thể gây tăng nồng độ trong huyết tương của những thuốc này, dẫn đến kéo dài khoảng QT và trong trường hợp hiếm gây xoắn đỉnh (torsade de pointes).

Chống chỉ định dùng đồng thời với các thuốc ức chế HMG-CoA reductase chủ yếu chuyển hóa qua CYP3A4 vì sự tăng nồng độ trong huyết tương của những thuốc này có thể dẫn đến tiêu cơ vân.

Mặc dù chưa được nghiên cứu in vitro hoặc in vivo, posaconazol có thể làm tăng nồng độ alkaloid nấm cựa gà dẫn đến ngộ độc nấm cựa gà. Chống chỉ định dùng đồng thời posaconazol và alkaloid nấm cựa gà.

Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú

Chưa có đầy đủ thông tin về việc sử dụng posaconazol cho phụ nữ mang thai. Những nghiên cứu trên động vật đã cho thấy độc tính đối với sinh sản. Posaconazol đã cho thấy gây ra dị dạng bộ xương trên chuột cống ở mức tiếp xúc thấp hơn mức tiếp xúc đạt được khi dùng liều điều trị ở người. Trên thỏ, posaconazol gây độc cho phôi ở các mức tiếp xúc cao hơn mức đạt được khi dùng liều điều trị. Chưa rõ nguy cơ có thể có đối với người. Không được dùng posaconazol trong thời kỳ mang thai trừ khi lợi ích cho người mẹ vượt trội nguy cơ có thể có đối với thai.

Posaconazol được bài tiết vào sữa của chuột cống cho con bú. Chưa có nghiên cứu về sự bài tiết của posaconazol vào sữa mẹ. Không nên dùng posaconazol ở phụ nữ cho con bú trừ khi lợi ích cho người mẹ vượt trội nguy cơ có thể có đối với trẻ.

Tương tác

Ảnh hưởng của các thuốc khác đến hỗn dịch uống posaconazol: Posaconazol được chuyển hóa qua quá trình UDP glucuronid hóa (các enzyme giai đoạn 2) và là một chất nền cho dòng đẩy p-glycoprotein (P-gp). Vì vậy, những thuốc ức chế hoặc cảm ứng các con đường thanh thải này có thể làm tăng hoặc giảm nồng độ posaconazol trong huyết tương.

Rifabutin (300mg, 1 lần/ngày) làm giảm Cmax (nồng độ tối đa trong huyết tương) của posaconazol 43% và giảm AUC (diện tích dưới đường cong nồng độ trong huyết tương theo thời gian) của posaconazol 49%. Nên tránh dùng đồng thời posaconazol và rifabutin trừ khi lợi ích đối với bệnh nhân vượt trội nguy cơ.

Phenytoin (200mg, 1 lần/ngày) làm giảm Cmax của posaconazol 41% và giảm AUC của posaconazol 50%. Nên tránh dùng đồng thời posaconazol và phenytoin trừ khi lợi ích đối với bệnh nhân vượt trội nguy cơ.

Cimetidine (400mg 2 lần một ngày) làm giảm Cmax và AUC của posaconazol (200mg QD) khoảng 39%. Việc dùng đồng thời posaconazol và cimetidine nên tránh trừ khi lợi ích điều trị vượt trên nguy cơ do việc dùng đồng thời gây nên.

Thuốc đối kháng thụ thể H2, thuốc ức chế bơm proton (PPI) và thuốc kháng acid: Không ghi nhận ảnh hưởng tương quan lâm sàng trên khả dụng sinh học của posaconazol khi dùng đồng thời cùng với một thuốc kháng acid, thuốc đối kháng thụ thể H2 khác ngoài cimetidine, hoặc thuốc ức chế bơm proton. Vì vậy không cần chỉnh liều của posaconazol khi sử dụng đồng thời với các thuốc kể trên.

Glipizide (liều đơn 10mg) không ảnh hưởng có ý nghĩa lâm sàng đến Cmax và AUC của posaconazol.

Efavirenz (400mg, 1 lần/ngày) làm giảm Cmax của posaconazol là 45% và giảm AUC của posaconazol là 50%. Nên tránh sử dụng đồng thời posaconazol và efavirenz trừ khi lợi ích đối với bệnh nhân vượt trội nguy cơ.

Fosamprenavir: Dùng kết hợp fosamprenavir với posaconazol có thể dẫn đến giảm nồng độ posaconazol trong huyết tương. Nếu cần sử dụng đồng thời, khuyến cáo nên theo dõi chặt chẽ tình trạng nhiễm nấm bùng phát. Sử dụng liều fosamprenavir lặp lại (700mg, 2 lần/ngày x 10 ngày) làm giảm Cmaxvà AUC của posaconazol (hỗn dịch uống 200 mg, 1 lần/ngày vào ngày đầu tiên, hỗn dịch uống 200mg, 2 lần/ngày vào ngày thứ 2, sau đó là hỗn dịch uống 400mg, 2 lần/ngày x 8 ngày) tương ứng là 21% và 23%.

Ảnh hưởng của hỗn dịch uống posaconazol đến các thuốc khác: Posaconazol không được chuyển hóa đến mức có ý ‎nghĩa lâm sàng qua hệ thống cytochrome P450. Tuy nhiên, posaconazol là một thuốc ức chế CYP3A4, vì vậy nồng độ trong huyết tương của các thuốc được chuyển hóa qua con đường enzyme này có thể tăng lên khi được dùng với posaconazol.

Alkaloid nấm Cựa gà: Mặc dù chưa được nghiên cứu in vitro hoặc in vivo, posaconazol có thể làm tăng nồng độ trong huyết tương của các alkaloid nấm Cựa gà (ergotamine và dihydroergotamine), có thể dẫn đến ngộ độc nấm cựa gà. Chống chỉ định dùng đồng thời posaconazol và alkaloid nấm Cựa gà.

Vinca alkaloids: Mặc dù chưa được nghiên cứu in vitro hoặc in vivo, posaconazol có thể làm tăng nồng độ trong huyết tương của các vinca alkaloid (như vincristine và vinblastine), có thể dẫn đến độc tính đối với thần kinh. Vì vậy khuyến cáo nên xem xét điều chỉnh liều vinca alkaloids.

Cyclosporine: Ở những bệnh nhân ghép tim dùng liều cyclosporine ổn định, việc sử dụng hỗn dịch uống posaconazol 200mg, 1 lần/ngày làm tăng nồng độ cyclosporine nên cần phải giảm liều. Khi bắt đầu điều trị bằng posaconazol ở những bệnh nhân đã dùng cyclosporine thì nên giảm liều cyclosporine (ví dụ giảm còn khoảng 3/4 liều hiện dùng). Sau đó nên theo dõi cẩn thận nồng độ cyclosporine trong máu trong thời gian dùng kết hợp và khi ngừng điều trị bằng posaconazol và nên điều chỉnh liều cyclosporine khi cần thiết.

Tacrolimus: Posaconazol làm tăng Cmax và AUC của tacrolimus (liều đơn 0,05mg/kg thể trọng) tương ứng là 121% và 358%. Khi bắt đầu điều trị bằng posaconazol ở những bệnh nhân đã dùng tacrolimus thì nên giảm liều tacrolimus (ví dụ giảm còn khoảng 1/3 liều hiện dùng). Sau đó nên theo dõi cẩn thận nồng độ tacrolimus trong máu trong thời gian dùng kết hợp và khi ngừng posaconazol và nên điều chỉnh liều tacrolimus khi cần thiết.

Sirolimus: Dùng liều uống posaconazol lặp lại (hỗn dịch uống 400mg, 2 lần/ngày trong 16 ngày) làm tăng Cmax và AUC của sirolimus (liều đơn 2mg) trung bình tương ứng gấp 6,7 lần và 8,9 lần ở các đối tượng khỏe mạnh. Khi bắt đầu điều trị ở bệnh nhân đã dùng sirolimus, nên giảm liều sirolimus (ví dụ giảm còn khoảng 1/10 liều hiện dùng) và theo dõi thường xuyên nồng độ đáy của sirolimus trong máu toàn phần. Nên theo dõi nồng độ sirolimus lúc bắt đầu sử dụng, trong thời gian dùng kết hợp và khi ngừng điều trị bằng posaconazol và điều chỉnh liều sirolimus cho phù hợp.

Rifabutin: Posaconazol làm tăng Cmax của rifabutin là 31% và tăng AUC của rifabutin là 72%. Nên tránh sử dụng đồng thời posaconazol và rifabutin trừ khi lợi ích đối với bệnh nhân vượt trội nguy cơ. Nếu dùng kết hợp hai thuốc này, khuyến cáo nên theo dõi cẩn thận về tổng số huyết cầu toàn phần và các tác dụng phụ liên quan đến tăng nồng độ rifabutin (như viêm màng mạch nho).

Midazolam: Dùng liều uống posaconazol lặp lại (hỗn dịch uống 200mg, 2 lần/ngày trong 7 ngày) làm tăng Cmax và AUC của midazolam tiêm tĩnh mạch (liều đơn 0,4mg) trung bình gấp 1,3 lần và 4,6 lần tương ứng. Dùng hỗn dịch uống posaconazol 400mg, 2 lần/ngày trong 7 ngày làm tăng Cmax và AUC của midazolam tiêm tĩnh mạch gấp 1,6 lần và 6,2 lần tương ứng. Cả hai liều trên của posaconazol làm tăng Cmax và AUC của midazolam dạng uống (liều đơn đường uống 2mg) gấp 2,2 lần và 4,5 lần tương ứng. Ngoài ra, posaconazol dạng uống (hỗn dịch uống 200mg hoặc 400mg) làm kéo dài thời gian bán hủy cuối cùng của midazolam từ khoảng 3-4 giờ đến 8-10 giờ trong thời gian dùng kết hợp.

Khuyến cáo nên xem xét điều chỉnh liều các benzodiazepine được chuyển hóa bởi CYP3A4 trong thời gian dùng kết hợp với posaconazol.

Zidovudine (AZT), lamivudine (3TC), indinavir: Nghiên cứu lâm sàng cho thấy không có ảnh hưởng đáng kể về mặt lâm sàng trên zidovudine, lamivudine, indinavir khi dùng chung với posaconazol, do đó, không cần điều chỉnh liều các thuốc dùng kết hợp.

Thuốc ức chế protease của virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV): Do các thuốc ức chế protease của HIV là các cơ chất của CYP3A4 nên posaconazol được cho là làm tăng nồng độ huyết tương của các thuốc kháng retrovirus này. Dùng liều uống posaconazol lặp lại (hỗn dịch uống 400mg, 2 lần/ngày trong 7 ngày) làm tăng Cmax và AUC của atazanavir (300mg, 1 lần/ngày trong 7 ngày) trung bình gấp 2,6 lần và 3,7 lần tương ứng ở các đối tượng khỏe mạnh. Dùng liều uống posaconazol lặp lại (hỗn dịch uống 400mg, 2 lần/ngày trong 7 ngày) làm tăng Cmax và AUC của atazanavir ở mức độ ít hơn khi được dùng dưới dạng chế độ điều trị gia tăng với ritonavir (300mg atazanavir cộng ritonavir 100mg, 1 lần/ngày trong 7 ngày) trung bình gấp 1,5 lần và 2,5 lần tương ứng ở các đối tượng khỏe mạnh. Khuyến cáo theo dõi thường xuyên các tác dụng phụ và độc tính liên quan với các thuốc kháng retrovirus là cơ chất của CYP3A4 trong thời gian dùng kết hợp với posaconazol.

Thuốc ức chế HMG-CoA reductase chủ yếu được chuyển hóa qua CYP3A4:  Dùng liều uống posaconazol lặp lại (hỗn dịch uống 50mg, 100mg và 200mg, 1 lần/ngày trong 13 ngày) làm tăng Cmax và AUC của simvastatin (liều đơn 40mg) trung bình gấp 7,4 đến 11,4 lần và 5,7 đến 10,6 lần tương ứng. Sự tăng nồng độ thuốc ức chế HMG-CoA reductase trong huyết tương có thể liên quan với tiêu cơ vân. Chống chỉ định dùng đồng thời posaconazol với các thuốc ức chế HMG-CoA reductase chủ yếu chuyển hóa qua CYP3A4.

Thuốc chẹn kênh calci chuyển hóa qua CYP3A4: Mặc dù chưa được nghiên cứu in vitro hoặc in vivo, nên theo dõi thường xuyên các tác dụng phụ và độc tính liên quan đến các thuốc chẹn kênh calci trong thời gian dùng kết hợp với posaconazol. Có thể cần phải điều chỉnh liều thuốc chẹn kênh calci.

Tác dụng ngoại ý

Độ an toàn của hỗn dịch uống posaconazol: Độ an toàn của hỗn dịch uống posaconazol đã được đánh giá ở 2.400 bệnh nhân và người tình nguyện khỏe mạnh được đưa vào nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng và từ kinh nghiệm hậu mãi. 172 bệnh nhân được điều trị bằng posaconazol trong thời gian ≥ 6 tháng; 58 bệnh nhân trong số này được điều trị bằng posaconazol trong thời gian ≥ 12 tháng.

Các phản ứng phụ nghiêm trọng liên quan đến điều trị đã được báo cáo ở 428 bệnh nhân được điều trị bằng hỗn dịch uống posaconazol bị nhiễm nấm xâm lấn (1% mỗi trường hợp) bao gồm thay đổi nồng độ của các thuốc khác, tăng các enzyme gan, buồn nôn, nổi ban và nôn. Các phản ứng phụ nghiêm trọng liên quan đến điều trị đã được báo cáo ở 605 bệnh nhân được điều trị dự phòng bằng hỗn dịch uống posaconazol (1% mỗi trường hợp) bao gồm tăng bilirubin huyết, tăng các enzyme gan, tổn thương tế bào gan, buồn nôn và nôn.

Các phản ứng phụ có ý nghĩa về y khoa liên quan đến điều trị ít gặp và hiếm gặp đã được báo cáo trong các thử nghiệm lâm sàng với hỗn dịch uống posaconazol bao gồm suy thượng thận, phản ứng dị ứng và/hoặc phản ứng quá mẫn.

Ngoài ra, các trường hợp xoắn đỉnh hiếm gặp đã được báo cáo ở những bệnh nhân dùng hỗn dịch uống posaconazol.

Hơn nữa, đã có báo cáo các trường hợp hiếm gặp về hội chứng urê huyết tan huyết và ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối, chủ yếu ở những bệnh nhân đã dùng đồng thời cyclosporine hoặc tacrolimus với hỗn dịch uống posaconazol để kiểm soát hiện tượng thải ghép hoặc mảnh ghép chống lại vật chủ.
Các phản ứng phụ liên quan đến điều trị (TRAE) đã được báo cáo trong các nghiên cứu với hỗn dịch uống posaconazol.

Các phản ứng phụ liên quan đến điều trị thường gặp nhất đã được báo cáo trong các nghiên cứu với hỗn dịch uống posaconazol ở toàn bộ các nhóm người tình nguyện khỏe mạnh và bệnh nhân được trình bày ở Bảng 2.

Tác dụng ngoại ý

Bảo quản

Bảo quản dưới 30°C. Không để đông lạnh.

Trình bày/Đóng gói

Hỗn dịch uống: hộp 1 chai 105mL.

Bài viết cùng chuyên mục

Norethindrone Acetate

Norethindrone Acetate là thuốc kê đơn dùng để điều trị các triệu chứng vô kinh, chảy máu tử cung và lạc nội mạc tử cung.

Neostigmin (synstigmine)

Neostigmin làm mất hoạt tính của acetylcholinesterase, là enzym có chức năng trung hoà acetylcholin được giải phóng. Nhờ ức chế enzym này mà sự phân hủy acetylcholin bị kìm hãm.

Norethindrone

Norethindrone là thuốc tránh thai, tên thương hiệu: Camila, Errin,  Heather, Jencycla, Jolivette, Lyza, Nor QD, Nora-BE, norethisterone, Norhisterone, Deblitane, Sharobel.

Neopeptine

Một ml Neopeptine giọt có khả năng tiêu hóa 15 mg tinh bột chín. Mỗi viên nang Neopeptine tiêu hóa không dưới 80 g tinh bột chín phóng thích 320 kcal.

Nuril

Nuril (Enalapril maleate) là muối maleate của enalapril, ethyl ester của enalaprilat, chất ức chế ACE (men chuyển angiotensin) có tác dụng kéo dài.

Norethindrone Acetate/Ethinyl Estradiol

Norethindrone Acetate/Ethinyl Estradiol là thuốc kê đơn dùng để tránh thai và liệu pháp thay thế hormone.

Naloxon

Naloxon hydroclorid là một chất bán tổng hợp, dẫn xuất từ thebain, có tác dụng đối kháng opiat. Khi dùng với liều bình thường cho người bệnh gần đây không dùng opiat, naloxon ít hoặc không có tác dụng dược lý.

Nevirapin: Nevicure, Nevirapine, Nevula, Viramune, thuốc kháng retrovirus

Nevirapin có tác dụng ức chế chọn lọc cao trên enzym phiên mã ngược của HIV 1, và không ức chế enzym của tế bào, bao gồm các polymerase alpha, beta, gamma hoặc delta của tế bào bình thường ở người

Neomycin/polymyxin B/bacitracin/pramoxine

Neomycin/polymyxin B/bacitracin/pramoxine là sản phẩm không kê đơn (OTC) được sử dụng để ngăn ngừa nhiễm trùng da.

Nicotinamid (vitamin PP)

Trong cơ thể, nicotinamid thực hiện chức năng sau khi chuyển thành hoặc nicotinamid adenin dinucleotid (NAD) hoặc nicotinamid adenin dinucleotid phosphat (NADP).

Nitroglycerin uống

Nitroglycerin uống là một loại thuốc theo toa được sử dụng để ngăn ngừa cơn đau thắt ngực.

Natri (sodium) nitrit

Natri nitrit được dùng cùng với natri thiosulfat để điều trị ngộ độc cyanid. Ngộ độc cyanid có thể xảy ra nếu truyền nitroprussiat quá nhanh.

Navelbine: thuốc điều trị ung thư loại vinca alkaloid

Navelbine là thuốc chống ung thư loại vinca alkaloid, nhưng không giống các vinca alkaloid khác, thành phần catharantin của vinorelbin được biến đổi về mặt cấu trúc.

Natri thiosulfat: thuốc giải độc, chống nấm, Aginsulfen, Sagofene, Vacosulfenep SC

Natri thiosulfat dùng toàn thân được dùng để điều trị nhiễm độc cyanid, cyanid có ái lực rất cao với sắt hoá trị 3 của cytochrom oxidase ở ty lạp thể, nên làm hô hấp tế bào bị ức chế gây thiếu oxy mô

Nitroglycerin xuyên niêm mạc

Nitroglycerin xuyên niêm mạc được sử dụng để làm giảm cơn đau cấp tính hoặc điều trị dự phòng cơn đau thắt ngực cấp tính do bệnh động mạch vành.

NovoSeven RT

Bệnh nhân có tiền sử bệnh mạch vành, bệnh gan, đang trải qua đại phẫu, trẻ sơ sinh, có nguy cơ thuyên tắc huyết khối hoặc đông máu nội mạch rải rác.

Natalvit

Bổ sung đầy đủ nguồn vitamin và khoáng chất cần thiết cho phụ nữ trong giai đoạn trước, trong thai kỳ và trong thời gian cho con bú, góp phần giảm thiểu các rối loạn thường gặp trong khi mang thai như nôn ói, thiếu máu.

Nitric oxit

Nitric oxit được sử dụng ở trẻ sơ sinh đủ tháng và sắp sinh bị suy hô hấp do thiếu oxy liên quan đến bằng chứng tăng áp phổi.

Naltrexon: Danapha Natrex, Depade, Naltre, Nodict, Notexon, thuốc đối kháng opiat

Naltrexon là thuốc đối kháng đặc hiệu trên thụ thể opiat tương tự naloxon, nhưng tác dụng mạnh hơn naloxon 2 đến 9 lần và thời gian tác dụng dài hơn, naltrexon mạnh hơn nalorphin 17 lần và bằng 1 phần 10 lần cyclazocin.

Nutrisol S

Nutrisol S! Người lớn: 20-500 ml/lần, truyền tĩnh mạch chậm hoặc nhỏ giọt tĩnh mạch. Tốc độ truyền vào khoảng 10 g acide amine trong vòng 60 phút (60-100 phút/500 ml tương ứng 80-60 giọt/phút)..

Neupogen

Neupogen! Filgrastime là một protéine tinh chế không glycosyl hóa, chứa 175 acide amine. Filgrastime được sản xuất từ vi khuẩn E. coli đã có gắn thêm gène sản xuất G-CSF.

Noradrenalin (norepinephrine)

Noradrenalin, hoàn toàn giống catecholamin nội sinh do tủy thượng thận, và mô thần kinh giao cảm tổng hợp, cả hai đều là chất đồng phân tả tuyền.

Nacardio

Tăng huyết áp ở bệnh nhân suy thận mãn tính, đái tháo đường và/hoặc suy tim: Người lớn: Khởi đầu 150 mg/ngày, có thể tăng đến 300 mg/ngày hoặc dùng thêm thuốc lợi tiểu hoặc kết hợp thuốc trị cao huyết áp khác.

Novobedouze Dix Mille

Điều trị hỗ trợ trong một số bệnh lý đau rễ thần kinh (đau dây thần kinh hông, đau dây thần kinh cổ cánh tay), trong các bệnh thần kinh gây đau và một số bệnh viêm dây thần kinh mắt ở phía sau nhãn cầu do thuốc và độc chất.

Nizoral Cream

Nizoral Cream! Nizoral cream có tác dụng kháng viêm và giảm ngứa có thể so sánh với hydrocortisone 1%. Nizoral cream không gây kích ứng nguyên phát hoặc dị ứng hay nhạy cảm ánh sáng khi bôi ngoài da.