Mircera

2016-12-24 01:41 PM

MIRCERA kích thích tạo hồng cầu bằng cách tương tác với thụ thể erythropoietin trên tế bào gốc ở tủy xương, là yếu tố tăng trưởng chính cho sự phát triển erythroid.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhà sản xuất

Roche.

Thành phần

Bơm tiêm đóng sẵn/lọ chứa một liều đơn: 30µg, 50µg, 100µg, 120μg, 150μg, 200μg hoặc 250μg methoxy polyethylene glycol-epoetin beta trong 0,3ml; hoặc 360μg methoxy polyethylene glycol-epoetin beta trong 0,6ml.

* Hoạt chất chính, methoxy polyethylene glycol-epoetin beta, là một sự kết hợp đồng hóa trị giữa một protein được tạo ra từ kỹ thuật tái tổ hợp DNA trong tế bào trứng chuột Hamster Trung Quốc và một chuỗi methoxy-polyethylene glycol (PEG) mạch thẳng. Sự kết hợp này sẽ tạo ra một phân tử có trọng lượng xấp xỉ 60kDa. Hàm lượng thuốc tính bằng µg biểu thị khối lượng phần protein của phân tử methoxy polyethylene glycol-epoetin beta không bao gồm khối lượng của chuỗi gắn thêm PEG.

Dung dịch trong suốt, từ không màu đến màu vàng nhạt.

* Tá dược: sodium phosphate monobasic monohydrate, sodium sulphate, mannitol, Methionine, poloxamer 188, và nước cất pha tiêm.

Mô tả

MICERA là phân tử đầu tiên thuộc nhóm mới các chất hoạt hóa liên tục thụ thể Erythropoietin, còn được gọi là methoxy polyethylene glycol-epoetin beta.

Cơ chế tác dụng

MIRCERA kích thích tạo hồng cầu bằng cách tương tác với thụ thể erythropoietin trên tế bào gốc ở tủy xương. Là yếu tố tăng trưởng chính cho sự phát triển erythroid, hormon tự nhiên erythropoietin được sản xuất từ thận và giải phóng vào máu khi có sự giảm oxy huyết. Phản ứng lại với sự giảm oxy huyết, những hormon tự nhiên erythropoietin sẽ tác động lên những tế bào gốc erythroid để làm tăng sự sản xuất hồng cầu.

Dược lực học

Trong hai thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng ở những bệnh nhân bị bệnh thận mạn tính không được thẩm phân máu BA16738 và NH20052, MIRCERA có hiệu quả trong việc điều trị thiếu máu ở 97,5% và 94.1% bệnh nhân, theo thứ tự tương ứng. Trong suốt 8 tuần đầu điều trị, tỷ lệ bệnh nhân có mức hemoglobin cao hơn 13g/dl là 11,4% đối với nhóm dùng MIRCERA và 34% đối với nhóm darboepoetin alfa trong nghiên cứu BA16738, trong khi tỷ lệ bệnh nhân tương ứng có mức hemoglobin cao hơn 12g/dl là 25.8% ở nhóm MIRCERA và 47.4% ở nhóm darbepoetin alfa trong nghiên cứu NH20052. Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên có chứng ở những bệnh nhân bị bệnh thận mạn tính có thẩm phân máu, MIRCERA có hiệu quả trong việc điều trị thiếu máu ở 93,3% bệnh nhân. Bốn nghiên cứu ngẫu nhiên có nhóm chứng đã được tiến hành ở những bệnh nhân được thẩm phân máu và đang được điều trị với darbepoetin alfa hoặc epoetin. Những bệnh nhân này được chọn ngẫu nhiên để tiếp tục được điều trị như cũ hoặc chuyển sang dùng MIRCERA với mục đích đạt được mức hemoglobin ổn định. Vào giai đoạn đánh giá (tuần 29 đến 36), mức hemoglobin trung bình và trung điểm ở những bệnh nhân được điều trị với MIRCERA được ghi nhận là gần giống như mức hemoglobin căn bản.

Trong một nghiên cứu đa trung tâm, nhãn mở, có nhóm chứng, 490 bệnh nhân (245 bệnh nhân trong mỗi nhóm điều trị) được lựa chọn ngẫu nhiên để so sánh hiệu quả và độ an toàn của MIRCERA với darbepoetin alfa trong điều trị thiếu máu ở bệnh nhân bị bệnh thận mạn tính không được thẩm phân máu.

Tỉ lệ bệnh nhân có đáp ứng cao hơn đáng kể ở nhóm bệnh nhân điều trị bằng MIRCERA một lần một tháng so với nhóm bệnh nhân điều trị bằng darbepoetin alfa một lần một tháng (p < 0,0001). Trong số 245 bệnh nhân ở mỗi nhóm, 157 (64,1%) bệnh nhân ở nhóm điều trị bằng MIRCERA có đáp ứng so với 99 (40,1%) bệnh nhân ở nhóm điều trị bằng darbepoetin alfa. Đáp ứng được xác định khi bệnh nhân có mức Hb trung bình > 10,5g/dl và mức giảm cao nhất không được vượt quá 1,0g/dl so với giá trị Hb trung bình của từng bệnh nhân trong quá trình điều trị.

Dược động học

Đối với bệnh nhân, đặc tính dược động học và dược lý học cho phép sử dụng MIRCERA mỗi tháng một lần, nhờ thuốc có thời gian bán thải dài. Thời gian bán thải sau khi tiêm tĩnh mạch MIRCERA dài gấp từ 15 đến 20 lần so với khi dùng erythropoietin người tái tổ hợp.

Dược động học của MIRCERA đã được nghiên cứu trên những người tình nguyện khỏe mạnh và trên những bệnh nhân bị thiếu máu do bệnh thận mãn tính được thẩm phân máu và chưa được thẩm phân máu.

Ở những bệnh nhân bị bệnh thận mãn tính, độ thanh thải và thể tích phân bố của methoxy polyethylene glycol-epoetin beta không phụ thuộc vào liều dùng.

Ở những bệnh nhân bị bệnh thận mãn tính, dược động học của MIRCERA đã được nghiên cứu sau liều đầu tiên và sau khi dùng thuốc ở tuần thứ 9 và tuần thứ 19 hoặc tuần 21. Liều được nhân lên không ảnh hưởng lên độ thanh thải, thể tích phân bố và sinh khả dụng của methoxy polyethylene glycol-epoetin beta. Sau khi dùng thuốc mỗi 4 tuần cho bệnh nhân bị bệnh thận mãn tính, không thấy có sự tích tụ đáng kể methoxy polyethylene glycol-epoetin beta, thể hiện qua tỷ lệ tích tụ thuốc là 1,03. Sau khi dùng thuốc mỗi 2 tuần, tỷ lệ tích tụ là 1,12.

So sánh nồng độ methoxy polyethylene glycol-epoetin beta trong huyết thanh đo được trước và sau khi thẩm phân máu ở 41 bệnh nhân bị bệnh thận mãn tính, người ta thấy rằng sự thẩm phân máu không ảnh hưởng lên dược động học của methoxy polyethylene glycol-epoetin beta.Một phân tích trên 126 bệnh nhân bị bệnh thận mãn tính đã ghi nhận rằng không có sự khác biệt về dược động học giữa những bệnh nhân được thẩm phân máu và những bệnh nhân không được thẩm phân máu.Những kết quả của một nghiên cứu trên 42 người tình nguyện khỏe mạnh đã cho thấy rằng vị trí tiêm dưới da (bụng, cánh tay hoặc đùi) không gây ảnh hưởng nào về mặt lâm sàng lên dược động học, dược lực học hoặc khả năng dung nạp tại chỗ của MIRCERA. Dựa trên những kết quả này, người ta cho rằng tất cả ba vị trí nêu trên đều thích hợp để tiêm MIRCERA dưới da.

Hấp thu

Hấp thu sau khi tiêm dưới da.Sau khi tiêm thuốc vào dưới da những bệnh nhân bị bệnh thận mãn tính, người ta thấy nồng độ của methoxy polyethylene glycol-epoetin beta đạt được tối đa sau khi tiêm 72 tiếng (giá trị trung điểm) ở bệnh nhân có thẩm phân máu và 95 giờ sau khi tiêm ở bệnh nhân không thẩm phân máu.Tính sinh khả dụng tuyệt đối của methoxy polyethylene glycol-epoetin beta sau khi tiêm dưới da ở bệnh nhân được thẩm phân máu là 62% và ở bệnh nhân không được thẩm phân máu là 54%.

Phân bố

Một thử nghiệm trên 400 bệnh nhân bị bệnh thận mãn tính đã cho thấy thể tích phân bố của methoxy polyethylene glycol-epoetin beta vào khoảng 5l.

Thải trừ

Sau khi tiêm tĩnh mạch cho bệnh nhân bị bệnh thận mãn tính, thời gian bán thải của methoxy polyethylene glycol-epoetin beta là 134 giờ [hoặc 5,6 ngày], và độ thanh thải toàn thân là 0,494ml/giờ/kg. Sau khi tiêm dưới da, thời gian bán thải cuối ở bệnh nhân là 139 giờ ở bệnh nhân có thẩm phân máu và 142 giờ ở bệnh nhân không thẩm phân máu.

Dược động học ở những đối tượng đặc biệt

Bệnh nhân suy gan: Dược động học của MICERA trên bệnh nhân suy gan cũng giống như đối tượng khỏe mạnh.* Các đối tượng đặc biệt khácNhững phân tích nhóm đối tượng đã đánh giá ảnh hưởng có thể có của những đặc điểm nhân khẩu học lên dược động học của MIRCERA. Kết quả của những phân tích này cho thấy rằng không cần thiết phải điều chỉnh liều khởi đầu cho từng lứa tuổi, từng giới hoặc từng chủng tộc. Một phân tích dược động học theo nhóm đối tượng cũng đã cho thấy không có sự khác biệt nào về mặt dược động học giữa những bệnh nhân được thẩm phân máu và những bệnh nhân không được thẩm phân máu.

An toàn tiền lâm sàng

Tính sinh ung thưKhả năng sinh gây ung thư của MIRCERA vẫn chưa được đánh giá trong những nghiên cứu dài hạn trên động vật. Trên in vitro, MIRCERA không gây đáp ứng tăng sinh lên những dòng tế bào khối u không thuộc huyết học. Trong một nghiên cứu độc tính 6 tháng ở chuột, người ta thấy thuốc không gây đáp ứng tạo khối u hoặc đáp ứng tạo phân bào không mong muốn lên những mô không thuộc huyết học. Ngoài ra, khi sử dụng một bảng mô người, người ta thấy rằng sự gắn kết trên in vitro của MIRCERA chỉ xảy ra trên những tế bào đích (những tế bào gốc tủy xương).

Suy giảm khả năng sinh sản

Khi tiêm MIRCERA dưới da cho chuột đực và chuột cái trước và trong lúc giao phối, thuốc không ảnh hưởng lên sự sinh sản, khả năng sinh sản và những thông số đánh giá tinh trùng.

Tính gây quái thai

Những nghiên cứu trên động vật không ghi nhận bất cứ tác động có hại nào của MIRCERA lên sự mang thai, sự phát triển của phôi thai/thai nhi, sự sinh nở hoặc sự phát triển sau khi sinh.

Chỉ định/Công dụng

MIRCERA được chỉ định để điều trị thiếu máu do bệnh thận mãn tính ở cả những bệnh nhân đang được thẩm phân máu lẫn những bệnh nhân chưa được thẩm phân máu.

Liều lượng & Cách dùng

Liều chuẩn

Số lần dùng MIRCERA sẽ ít hơn những chất kích thích tạo hồng cầu khác do thuốc có thời gian bán thải dài hơn.Điều trị với MIRCERA phải được bắt đầu dưới sự giám sát của bác sĩ.

Điều trị thiếu máu triệu chứng ở bệnh nhân người lớn bị bệnh thận mãn tínhĐiều trị với MIRCERA phải được bắt đầu dưới sự giám sát của bác sĩ có kinh nghiệm trong kiểm soát bệnh nhân bị suy thận. Các triệu chứng và biến chứng của thiếu máu có thể khác nhau theo tuổi tác, giới tính, và mức độ nặng của bệnh; cần thiết phải có đánh giá của bác sỹ về tình trạng và diễn tiến lâm sàng của từng bệnh nhân cụ thể.

MIRCERA nên được tiêm dưới da hoặc tiêm tĩnh mạch để làm tăng trị số hemoglobin lên không quá 12g/dl (7,45mmol/l). Tiêm dưới da thích hợp đối với bệnh nhân không đang được thẩm phân máu để tránh làm thủng tĩnh mạch ngoại vi.

MIRCERA có thể được tiêm vào dưới da ở vùng bụng, cánh tay hoặc đùi. Cả ba vị trí này đều thuận tiện như nhau để tiêm MIRCERA dưới da.

Do sự biến đổi trong từng bệnh nhân, nồng độ hemoglobin cụ thể của 1 bệnh nhân đôi khi cao hơn hay thấp hơn nồng độ haemoglobin yêu cầu. Sự biến thiên hemoglobin nên được chú ý thông qua giám sát liều dùng, với việc cân nhắc để có mức hemoglobin cần thiết nằm trong khoảng từ 10g/dl (6,2mmol/l) đến 12g/dl (7,45mmol/l). Cần tránh việc nồng độ hemoglobin được duy trì ở mức cao hơn 12g/dl (7,45mmol/l); hướng dẫn điều chỉnh liều phù hợp trong trường hợp trị số hemoglobin vượt quá 12g/dl (7,45mmol/l) được mô tả dưới đây. Do sự biến đổi trong từng bệnh nhân, nồng độ hem oglobin cụ thể của 1 bệnh nhân đôi khi cao hơn hay thấp hơn nồng độ haemoglobin yêu cầu. Sự biến thiên hemoglobin nên được chú ý thông qua giám sat liều dùng, với việc cân nhắc để có mức hemoglobin cần thiết nằm trong khoảng từ 10g/dl (6,21mmol/l) đến 12g/dl (7,45mmol/l). Cần tránh việc nồng độ hemoglobin được duy trì ở mức cao hơn 12g/dl (7,45mmol/l); hướng dẫn điều chỉnh liều phù hợp trong trường hợp trị số hemoglobin vượt quá 12g/dl (7,45mmol/l) được mô tả dưới đây.Nên tránh việc tăng trị số hemoglobin nhiều hơn 2g/dl (1,24mmol/l) sau 4 tuần điều trị. Nếu có tình trạng này, cần điều chỉnh liều cho thích hợp theo hướng dẫn. Bệnh nhân phải được giám sát chặt để đảm bảo rằng liều MIRCERA được chấp nhận thấp nhất được dùng có thể kiểm soát đầy đủ các triệu chứng thiếu máu.Nên theo dõi mức hemoglobin của bệnh nhân mỗi hai tuần một lần cho đến khi mức này ổn định, và theo dõi định kỳ sau đó.

Bệnh nhân hiện chưa được điều trị với chất kích thích tạo hồng cầu nào:Liều MIRCERA khởi đầu khuyên dùng là 0,6 microgram/kg thể trọng, được tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm dưới da với liều đơn mỗi hai tuần một lần, để làm tăng trị số hemoglobin lên trên mức 10g/dl (6,21mmol/l). Nếu sau một tháng điều trị, tốc độ tăng hemoglobin ít hơn 1,0g/dl (0,621mmol/l), liều MIRCERA có thể được tăng thêm khoảng 25% của liều trước đó. Cứ sau mỗi tháng, có thể tăng liều khoảng 25% cho đến khi đạt được mức hemoglobin cần thiết cho mỗi bệnh nhân. Nếu sau một tháng điều trị, tốc độ tăng hemoglobin nhiều hơn 2g/dl (1,24mmol/l), hoặc trị số hemoglobin đang tăng và đạt đến 12g/dl (7,45mmol/l), liều dùng có thể được giảm đi khoảng 25%. Nếu mức hemoglobin tiếp tục tăng lên, phải ngưng việc điều trị cho đến khi mức hemoglobin giảm xuống và sau đó, bắt đầu điều trị lại với liều xấp xỉ 25% liều đã dùng trước đó. Sau khi tạm ngừng dùng thuốc, hemoglobin giảm khoảng 0,35g/dl (0,22mmol/l) mỗi tuần. Không nên điều chỉnh liều dùng nhiều hơn một lần mỗi tháng.

Bệnh nhân được điều trị một lần mỗi 2 tuần mà nồng độ hemoglobin vượt quá 10g/dL (6.21mmol/l) có thể dùng MIRCERA một lần mỗi tháng với liều gấp 2 lần so với liều một lần mỗi hai tuần trước đó.

Bệnh nhân hiện đang được điều trị với một chất kích thích tạo hồng cầu:Bệnh nhân hiện đang được điều trị với một chất kích thích tạo hồng cầu có thể được chuyển sang tiêm tĩnh mạch liều đơn hoặc tiêm dưới da MIRCERA mỗi tháng một lần hoặc, nếu cần thiết, mỗi hai tuần một lần.

Liều khởi đầu MIRCERA tùy thuộc vào liều darbepoetin alfa hoặc epoetin đã tính được trước đó mà bệnh nhân đang được dùng hàng tuần tại thời điểm chuyển sang dùng MIRCERA. Liều khởi đầu này được trình bày trong bảng 1 ở dưới đây.

Lần tiêm MIRCERA đầu tiên nên được tiến hành vào lúc dự định tiêm mũi darbepoetin alfa hoặc epoetin kế tiếp trong phác đồ điều trị trước đó.Nếu cần phải điều chỉnh liều để duy trì nồng độ hemoglobin đã đạt được ở mức trên 10g/dl (6,21mmol/l), liều dùng hàng tháng có thể được điều chỉnh khoảng 25%.Nếu sau một tháng điều trị, tốc độ tăng hemoglobin nhiều hơn 2g/dl (1,24mmol/l), hoặc trị số Hb đang tăng và đạt đến 12g/dL, liều dùng có thể được giảm đi khoảng 25%. Nếu mức hemoglobin tiếp tục tăng lên, phải ngưng việc điều trị cho đến khi mức hemoglobin giảm xuống và sau đó, bắt đầu điều trị lại với liều xấp xỉ 25% liều đã dùng trước đó. Sau khi tạm ngừng dùng thuốc, hemoglobin giảm khoảng 0,35g/dL (0,22 mmol/L) mỗi tuần.Không nên điều chỉnh liều dùng nhiều hơn một lần mỗi tháng.

Do kinh nghiệm điều trị cho bệnh nhân thẩm phân phúc mạc còn hạn chế, cần giám sát thường xuyên và tuân thủ chặt chẽ hướng dẫn về điều chỉnh liều dùng đối với những bệnh nhân này.

Ngưng điều trị

Việc điều trị với MIRCERA thông thường kéo dài. Tuy nhiên, nếu cần thiết có thể ngưng dùng thuốc bất kỳ lúc nào.

Liều dùng bị bỏ sót

Nếu một liều MIRCERA bị bỏ sót, nên tiêm lại liều này càng sớm càng tốt và phải bắt đầu dùng MIRCERA lại theo đúng như số lần dùng đã được chỉ dẫn.

Hướng dẫn liều dùng đặc biệt

Sử dụng cho trẻ em: Không nên dùng MIRCERA cho bệnh nhi dưới 18 tuổi do chưa có đủ những dữ liệu về an toàn và hiệu quả của thuốc trên những đối tượng này.

Người già: trong các thử nghiệm lâm sàng có 24% bệnh nhân được điều trị bằng MIRCERA nằm trong độ tuổi 65-74, còn 20% nằm trong độ tuổi từ 75 trở lên. Không cần điều chỉnh liều dùng ban đầu ở bệnh nhân từ 65 tuổi trở lên.

Ở người suy gan: không cần điều chỉnh hoặc thay đổi liều dùng ban đầu ở các bệnh nhân suy gan (xem phần Dược động học ở các đối tượng đặc biệt).- Hướng dẫn sử dụng, hủy bỏ thuốcMIRCERA không được trộn lẫn với những thuốc khác.MIRCERA là một sản phẩm vô trùng nhưng không chứa chất bảo quản. Thuốc trong bơm tiêm đóng sẵn hoặc trong lọ chỉ được dùng cho một liều duy nhất và chỉ dùng một lần.Chỉ dùng thuốc khi thấy dung dịch thuốc trong suốt, không màu đến vàng nhạt và không có cặn.Không được lắc thuốc.Để thuốc đạt đến nhiệt độ phòng trước khi tiêm thuốc.

Loại bỏ thuốc hết hạn/thuốc không sử dụng

Cần giảm thiểu việc bỏ thuốc vào môi trường. Tránh loại bỏ thuốc qua nước thải hoặc qua r ác thải hộ gia đình. Sử dụng "hệ thống chọn lọc" đã được thiết lập, nếu sẵn có ở nơi bạn sống.

Cảnh báo

Liệu pháp bổ sung sắt được khuyến cáo cho tất cả những bệnh nhân có trị số ferritin huyết thanh thấp dưới 100 g/l hoặc độ bão hòa transferin dưới 20%. Để đảm bảo việc tạo hồng cầu có hiệu quả, nên đánh giá tình trạng sắt của tất cả các bệnh nhân trước và trong suốt quá trình điều trị với thuốc.

Kém hiệu quả

Những nguyên nhân phổ biến nhất của việc không đáp ứng đầy đủ với những yếu tố kích thích tạo hồng cầu là do thiếu sắt và những tình trạng viêm nhiễm. Những trường hợp sau đây cũng có thể làm giảm hiệu quả của việc điều trị với những yếu tố kích thích tạo hồng cầu: mất máu mãn tính, xơ hóa tủy xương, quá tải nhôm nặng do điều trị suy thận, thiếu hụt acid folic hoặc vitamin B12 và sự tan huyết. Nếu loại trừ được tất cả những trường hợp trên và bệnh nhân đột ngột bị giảm hemoglobin kèm theo giảm hồng cầu lưới và có kháng thể chống erythropoietin, thì nên cân nhắc đến việc xét nghiệm tủy xương để chẩn đoán có phải là hội chứng bất sản đơn thuần dòng hồng cầu (PRCA) hay không. Nếu đúng là PRCA, phải ngưng dùng MIRCERA và không nên chuyển sang dùng bất kỳ yếu tố kích thích tạo hồng cầu nào khác cho bệnh nhân.

Hội chứng bất sản đơn thuần dòng hồng cầu (PRCA) do kháng thể chống erythropoietin đã được báo cáo là có liên quan đến việc sử dụng các yếu tố kích thích tạo hồng cầu. Người ta thấy rằng những kháng thể này có phản ứng chéo với tất cả các yếu tố kích thích tạo hồng cầu, và không nên chuyển sang dùng MIRCERA cho những bệnh nhân bị nghi ngờ hoặc chắc chắn là có kháng thể chống erythropoietin.

Theo dõi huyết áp

Cũng như những yếu tố kích thích tạo hồng cầu khác, trong suốt quá trình điều trị thiếu máu với MIRCERA, huyết áp có thể tăng lên. Nên kiểm soát đầy đủ huyết áp trước khi điều trị, vào lúc bắt đầu điều trị và trong suốt quá trình điều trị với MIRCERA. Nếu tình trạng cao huyết áp khó được kiểm soát bằng thuốc hoặc bằng những chế độ tiết thực, thì cần phải giảm liều hoặc ngưng dùng MIRCERA (Xem mục Liều lượng và Cách dùng).

Ảnh hưởng lên sự phát triển của khối u

MIRCERA, cũng như những yếu tố kích thích tạo hồng cầu khác, là một yếu tố tăng trưởng, kích thích chủ yếu quá trình tạo hồng cầu. Những thụ thể của erythropoietin hiện diện trên bề mặt của nhiều tế bào ung thư. Như những yếu tố tăng trưởng khác, các yếu tố kích thích tạo hồng cầu có thể kích thích sự tăng trưởng của bất kỳ loại khối u ác tính nào. Trong hai nghiên cứu lâm sàng có kiểm chứng, epoetins đã được dùng cho những bệnh nhân bị nhiều loại ung thư khác nhau, bao gồm ung thư vùng đầu - cổ và ung thư vú, người ta đã ghi nhận được một sự gia tăng tỷ lệ tử vong không lý giải được.

Tính an toàn và hiệu quả của liệu pháp MIRCERA vẫn chưa được thiết lập cho những bệnh nhân bị bệnh hemoglobin, bệnh gan nặng, bị động kinh hoặc có số lượng tiểu cầu cao hơn 500x109/l. Vì vậy, cần thận trọng khi dùng thuốc cho những bệnh nhân này.

Tác động lên khả năng lái xe và vận hành máy móc

Chưa có những nghiên cứu về tác động của thuốc lên khả năng lái xe và vận hành máy móc. Tuy nhiên, dựa trên cơ chế tác dụng và những dữ liệu an toàn đã được biết của MIRCERA, người ta cho rằng thuốc không ảnh hưởng lên khả năng lái xe và vận hành máy móc.

Sử dụng ở người già

Trong số 1789 bệnh nhân bị bệnh thận mãn tính được điều trị với MIRCERA trong những thử nghiệm lâm sàng pha II và pha III của MIRCERA, có 24% bệnh nhân từ 65 đến 74 tuổi và 20% từ 75 tuổi trở lên. Dựa trên những phân tích nhóm đối tượng, người ta thấy không cần phải điều chỉnh liều dùng ban đầu cho những bệnh nhân từ 65 tuổi trở lên.Quá Liều Giới hạn liều điều trị của MIRCERA rất rộng và đáp ứng với điều trị của từng bệnh nhân phải được xem xét khi bắt đầu điều trị với MIRCERA. Tình trạng quá liều có thể đưa đến biểu hiện của một tác động dược lực học quá mức, ví dụ như sự tạo hồng cầu quá mức. Trong trường hợp mức hemoglobin quá cao, nên tạm ngưng dùng MIRCERA (Xem mục Liều lượng và Cách dùng). Nếu có chỉ định trên lâm sàng, có thể cần phải trích máu tĩnh mạch.

Chống chỉ định

Không được dùng MIRCERA cho những bệnh nhân sau:

Bệnh nhân bị cao huyết áp không kiểm soát được.

Bệnh nhân được biết bị quá mẫn với hoạt chất hoặc với bất kỳ thành phần tá dược nào của thuốc.

Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú      

Phụ nữ có thai

Không có đủ những dữ liệu về việc dùng MIRCERA cho phụ nữ có thai.

Các thử nghiệm trên động vật không ghi nhận tác động có hại trực tiếp hoặc gián tiếp của thuốc lên sự mang thai, sự phát triển của phôi thai/thai nhi, sự sinh nở hoặc sự phát triển sau khi sinh.Nên thận trọng khi chỉ định dùng MIRCERA cho phụ nữ có thai.

Bà mẹ đang cho con bú

Người ta vẫn chưa biết được liệu methoxy polyethylene glycol-epoetin beta có bài tiết vào trong sữa mẹ ở người hay không. Một thử nghiệm trên động vật đã cho thấy rằng methoxy polyethylene glycol-epoetin beta được tiết vào trong sữa mẹ. Phải cân nhắc giữa lợi ích của việc cho con bú đối với trẻ và lợi ích của việc dùng MIRCERA cho mẹ mà quyết đ ịnh tiếp tục hay ngưng cho con bú hoặc tiếp tục hay ngưng dùng MIRCERA.

Tương tác

Chưa có nghiên cứu nào về tương tác thuốc đã được tiến hành. Các kết quả lâm sàng không chỉ ra bất kỳ tương tác nào giữa MIRCERA với các thuốc khác. Ảnh hưởng của những thuốc khác lên dược động học và dược lực học của MIRCERA đã được thăm dò qua một khảo sát phân tích nhóm đối tượng. Không có dấu hiệu nào cho thấy tác động của những thuốc dùng kèm lên dược động học và dược lực học của MIRCERA.Tác dụng ngoại ý Bệnh nhân thông báo cho bác sĩ nếu thấy bất kỳ phản ứng phụ nào có liên quan đến việc dùng thuốc.

Những thử nghiệm lâm sàng

Những dữ liệu an toàn của MIRCERA được ghi nhận từ những thử nghiệm lâm sàng có chứng, tiến hành trên 3024 bệnh nhân bị bệnh thận mãn tính, trong đó có 1939 bệnh nhân được điều trị với MIRCERA và 1103 bệnh nhân được điều trị với yếu tố kích thích tạo hồng cầu khác.Dựa vào kết quả từ 1939 bệnh nhân, khoảng 6% số bệnh nhân được điều trị với MIRCERA có các phản ứng không mong muốn. Phản ứng không mong muốn thường gặp nhất là tăng huyết áp (hay gặp).Những ký hiệu sau được sử dụng để mô tả tần số xuất hiện các phản ứng không mong muốn được cho là do MIRCERA gây ra trong các thử nghiệm lâm sàng có chứng: hay gặp (≥ 1/100 và < 1/10), ít gặp ( ≥ 1/1000 và < 1/100), và hiếm gặp (≥ 1/10.000 và < 1/1.000).Tất cả những tác dụng không mong muốn khác được cho là do MIRCERA gây ra đã được báo cáo với tỷ lệ hiếm gặp và phần lớn ở mức độ từ nhẹ đến trung bình. Những tác dụng không mong muốn này không thay đổi theo tình hình bệnh đi kèm đã được biết trong quần thể.

Những bất thường trong xét nghiệm cận lâm sàng

Trong những thử nghiệm lâm sàng, người ta đã quan sát thấy có sự giảm nhẹ số lượng tiểu cầu nhưng vẫn còn nằm trong giới hạn bình thường, trong thời gian điều trị với MIRCERA.

Số lượng tiểu cầu dưới 100x109/l đã được ghi nhận trong 7,5% số bệnh nhân được điều trị với MIRCERA và 4,4% số bệnh nhân được điều trị với những yếu tố kích thích tạo hồng cầu khác.

Sau khi thuốc ra thị trường

Trung hòa kháng thể chống erythropoietin qua trung gian hội chứng bất sản đơn thuần dòng hồng cầu khi dùng liệu pháp MIRCERA đã được báo cáo. Các thông tin về độ an toàn thu thập được sau khi thuốc ra thị trường đã phản ánh đúng những tác dụng không mong muốn được dự báo ở các nhóm dân số này và đặc điểm ADR của methoxy polyethylene glycol-epoetin beta (xem phần Cảnh báo, Sử dụng ở các nhóm dân số đặc biệt, Thử nghiệm lâm sàng).

Bảo quản

Bảo quản ở nhiệt độ 2-8 0C (trong tủ lạnh).

Giữ lọ thuốc trong hộp giấy để tránh ánh sáng.

Giữ bơm tiêm đóng sẵn thuốc trong hộp giấy để tránh ánh sáng.* Không được làm đông lạnh thuốc.

Phân loại

Các tác nhân tạo máu [Haematopoietic Agents].

Trình bày/Đóng gói

Dung dịch tiêm, được trình bày ở dạng dung dịch vô trùng và có thể dùng ngay, như sau:

Bơm tiêm đóng sẵn chứa một liều đơn.

Lọ chứa một liều đơn.

Bài viết cùng chuyên mục

Mexiletine hydroclorid

Mexiletin có tác dụng gây tê tại chỗ và chống loạn nhịp tim. Ở người bệnh có rối loạn dẫn truyền, thuốc tác động đến dẫn truyền nhĩ - thất và khoảng H - V và kéo dài thời kỳ trơ hiệu quả.

Madiplot

Tác dụng hạ huyết áp của manidipine chlorhydrate là do tác động lên kênh calci phụ thuộc điện thế màng của cơ trơn mạch máu, ức chế dòng calci đi vào tế bào và làm giãn cơ trơn mạch máu, do đó làm giãn mạch.

Mucolator

Mucolator! Thuốc dùng thích hợp khi có sự ứ đọng trong phế quản đi kèm với các trạng thái nhiễm trùng bộ máy hô hấp (các bệnh cấp tính của phế quản và phổi).

Magnevist

Suy thận nặng vì giảm thải trừ thuốc cản quang, cho đến nay, không thấy có tình trạng suy thận nặng thêm hoặc các phản ứng phụ khác do dùng thuốc cản quang.

Montelukast

Montelukast được sử dụng thường xuyên để ngăn ngừa thở khò khè và khó thở do hen suyễn và giảm số lần lên cơn hen suyễn. Montelukast cũng được sử dụng trước khi tập thể dục để ngăn ngừa các vấn đề về hô hấp.

Moriamin forte

Thuốc kết hợp 8 acid amin thiết yếu và 11 vitamin cần thiết cho nhu cầu hàng ngày của cơ thể.. Ngoài ra, thuốc còn chứa 5 hydroxyanthranilic acid có tác dụng kết hợp các acid amin thiết yếu.

Mycostatine

Mycostatine! Hoạt chất chính của Mycostatine là nystatine, đây là một kháng sinh kháng nấm do tiếp xúc thuộc họ polyène, chiết từ nấm Streptomyces noursei.

Mitoxantron hydrochlorid: Mitoxantron, Mitoxgen, thuốc chống ung thư

Mitoxantron hydroclorid là dẫn chất anthracendion có tác dụng chống ung thư. Mặc dù cơ chế chính xác của mitoxantron chưa được xác định, mitoxantron được cho là can thiệp vào chức năng của topoisomerase II

Milgamma N

Bất kỳ trường hợp tiêm tĩnh mạch nào đều phải được theo dõi bởi bác sĩ hoặc trong điều kiện nằm viện, tùy mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng. Thuốc có thể gây rối loạn thần kinh nếu sử dụng hơn 6 tháng.

Menthol topical

Menthol topical là một sản phẩm không kê đơn được sử dụng để giảm đau cho các cơn đau cơ và khớp nhẹ.

Mixtard 30

Lọ insulin có 1 nắp nhựa bảo vệ có màu đặc biệt, nắp này sẽ được lấy đi trước khi rút insulin. Bệnh nhân phải được chỉ dẫn để trả lại lọ insulin cho hiệu thuốc nếu nắp nhựa này bị rơi ra hay bị mất.

Moriamin S 2

Ở người già, chức năng sinh lý thường giảm, nên đặc biệt cẩn thận bằng các biện pháp như giảm liều lượng, giảm vận tốc truyền...

Myonal

Myonal tác động chủ yếu trên tủy sống làm giảm các phản xạ tủy và tạo ra sự giãn cơ vân nhờ làm giảm sự nhạy cảm của thoi cơ thông qua hệ thống ly tâm gamma.

Milgamma mono 150

Thận trọng vơi phụ nữ có thai/cho con bú: liều khuyến cáo 1.4 - 1.6 mg vitamin B1/ngày. Liều cao hơn chỉ dùng cho bệnh nhân thiếu vitamin B1. Chống chỉ định mẫn cảm với bất cứ thành phần nào của thuốc.

Mifepristone

Nhãn hiệu Mifeprex của mifepristone được chỉ định để chấm dứt thai kỳ trong tử cung cho đến 70 ngày tuổi thai bằng thuốc kết hợp với misoprostol.

Mục lục các thuốc theo vần M

Maclong xem Roxithromycin, Macprid xem Loperamid, Macrobid xem Nitrofurantoin, Macrodantin xem Nitrofurantoin, Macrodex xem Dextran 70, Macrozide 500 xem Pyrazinamid.

Magnesium supplement

Bổ sung Magnesium là một chất bổ sung không kê đơn (OTC) được sử dụng để điều trị tình trạng thiếu Magnesium và suy thận.

Metoprolol

Metoprolol là một thuốc đối kháng chọn lọc beta1 - adrenergic không có hoạt tính nội tại giống thần kinh giao cảm. Tuy nhiên tác dụng không tuyệt đối trên thụ thể beta1 - adrenergic nằm chủ yếu ở cơ tim.

Metronidazole/Tetracycline/Bismuth Subsalicylate

Metronidazole / Tetracycline / Bismuth Subsalicylate là một loại thuốc theo toa được sử dụng để diệt trừ nhiễm trùng H pylori liên quan đến loét tá tràng ở người lớn.

Mabthera

Tính hiệu quả và an toàn của MabThera trong việc làm giảm các dấu hiệu và triệu chứng của viêm khớp dạng thấp được chứng minh trong ba nghiên cứu ngẫu nhiên, có đối chứng, mù đôi, đa trung tâm.

Mydocalm

Mydocalm là một thuốc giãn cơ tác dụng trung ương, có tác động phức tạp. Nhờ làm bền vững màng và gây tê cục bộ, Mydocalm ức chế sự dẫn truyền trong các sợi thần kinh nguyên phát và các nơron vận động.

Methoxy polyethylen glycol/epoetin beta

Methoxy polyethylen glycol/epoetin beta là sự kết hợp của các loại thuốc theo toa được sử dụng để điều trị bệnh thiếu máu liên quan đến suy thận mãn tính.

Mucusan suspension

Mucusan có hoạt chất chính carbocystéine là một chất phân giải chất nhầy hữu hiệu trong việc giảm ho đi kèm theo sự tiết quá độ chất nhầy dính.

Methohexital

Methohexital là một loại thuốc theo toa được sử dụng như thuốc gây mê. Tên thương hiệu: Natri Brevital.

Mutecium-M: thuốc điều trị triệu chứng nôn và buồn nôn

Mutecium-M (domperidone) là một chất đối kháng dopamine có tác dụng kích thích nhu động đường tiêu hóa và chống nôn. Domperidone có tính đồng vận phó giao cảm và đối kháng thụ thể dopamine với tác dụng trực tiếp lên vùng hoạt hóa thụ thể.