Lantus

2016-10-12 02:35 PM

Trong các nghiên cứu dược lý học lâm sàng, insulin glargine và insulin người tiêm tĩnh mạch được chứng minh là có hoạt lực tương đương khi dùng liều như nhau.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhà sản xuất

Sanofi-Aventis.

Thành phần

Mỗi mL: Insulin glargine 100 IU (3.64mg).

Tác động

Lantus là thuốc chống tăng đường huyết chứa insulin glargine. Insulin glargine là loại insulin tương tự như insulin người, được sản xuất bằng kỹ thuật tái tổ hợp DNA. Có độ hòa tan thấp ở pH trung tính. Ở pH = 4, dung dịch thuốc tiêm insulin glargine tan hoàn toàn. Sau khi tiêm dưới da, dung dịch có tính acid được trung hòa, dẫn đến sự hình thành các vi tủa liên tục phóng thích những lượng nhỏ insulin glargine, giúp nồng độ thuốc ổn định, không có đỉnh, có thể đoán trước với thời gian tác động kéo dài. Insulin glargine chỉ chích một lần mỗi ngày, giai đoạn thuốc đạt được ổn định trong vòng 2-4 ngày sau liều đầu tiên.

Hoạt tính chính của insulin, kể cả insulin glargine, là điều hòa chuyển hóa glucose. Insulin và những chất tương đồng của nó làm hạ nồng độ glucose trong máu bằng cách kích thích sự thu nạp glucose ở ngoại biên, đặc biệt là ở cơ vân và mỡ, và bằng cách ức chế sự sản xuất glucose ở gan. Insulin ức chế sự ly giải lipid ở tế bào mỡ, ức chế tiêu protein và tăng tổng hợp protein.

Trong các nghiên cứu dược lý học lâm sàng, insulin glargine và insulin người tiêm tĩnh mạch được chứng minh là có hoạt lực tương đương khi dùng liều như nhau. Cũng như mọi insulin khác, thời gian tác động của insulin glargine có thể bị ảnh hưởng bởi hoạt động thể lực và các biến số khác.

Ở người khoẻ mạnh và bệnh nhân đái tháo đường, nồng độ insulin huyết biểu hiện chậm hơn, sự hấp thu kéo dài hơn và không có đỉnh sau khi chích insulin glargine được so với NPH (hoặc insulin bán chậm).

Thời gian tác động của insulin và các chất tương đồng insulin như insulin glargine có thể biến thiên đáng kể giữa những cá thể khác nhau hoặc trên cùng một cá thể.

Đặc điểm dược động học của insulin glargine ít có sự biến thiên trong mỗi cá thể và giữa các cá thể khác nhau so với insulin người tác động chậm.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa lâm sàng về nồng độ insulin huyết thanh sau khi tiêm insulin glargine ở bụng, ở cơ delta hay ở đùi.

Dược động học

Trên người khỏe mạnh và bệnh nhân đái tháo đường, sau khi tiêm dưới da insulin glargine, nồng độ insulin trong huyết thanh chứng tỏ một sự hấp thu chậm hơn và kéo dài hơn, và không thấy đỉnh nồng độ khi so sánh với NPH insulin người. Vì vậy, nồng độ phù hợp với diễn biến hoạt tính dược lực học của insulin glargine theo thời gian.

Thời gian tác dụng kéo dài 24 giờ, không đỉnh.

Insulin glargine tiêm mỗi ngày một lần sẽ đạt được trạng thái ổn định nồng độ trong vòng 2-4 ngày sau liều đầu tiên.

Khi tiêm tĩnh mạch, thời gian bán thải của insulin glargine và insulin người tương tự như nhau.

Trên người, insulin glargine bị phân hủy một phần trong mô dưới da ở đầu tận carboxyl của chuỗi bêta, với sự hình thành các chất chuyển hóa có hoạt tính 21A-Gly-insulin và 21A-Gly-des-30B-Thr-insulin. Insulin glargine không bị biến đổi và các sản phẩm phân hủy đều hiện diện trong huyết tương.

Trong các nghiên cứu lâm sàng, phân tích phân nhóm theo tuổi và giới không cho thấy sự khác biệt nào về tính an toàn và hiệu quả trên bệnh nhân điều trị insulin glargine so với toàn bộ quần thể nghiên cứu.

Chỉ định/Công dụng

Điều trị đái tháo đường ở người lớn, thiếu niên và trẻ em từ 6 tuổi trở lên, khi cần điều trị với insulin.

Liều lượng & Cách dùng

Hoạt lực của thuốc được biểu thị bằng đơn vị. Đơn vị này dành riêng cho Lantus và không giống với đơn vị quốc tế (IU) hoặc các đơn vị khác được sử dụng để biểu thị hoạt lực của các chất tương đồng indulin khác. Nên tuân thủ đúng theo liều lượng khuyến nghị, trừ khi bác sĩ có ý kiến hướng dẫn khác.

Liều dùng

Vì thuốc có tác động kéo dài, có thể tiêm Lantus mỗi ngày một lần vào bất cứ lúc nào, nhưng hàng ngày nên tiêm vào một giờ nhất định. Bác sĩ sẽ điều chỉnh liều dùng tùy từng người, và cũng sẽ hướng dẫn nên tiêm Lantus ở đâu, khi nào cần đo đường huyết và có cần xét nghiệm nước tiểu hay không. Bác sĩ có thể kê toa cho dùng Lantus cùng với một insulin khác tác động ngắn hoặc thuốc uống chống đái tháo đường.

Khi đang điều trị bằng insulin có tác động trung bình hoặc ngắn đổi sang dùng phác đồ điều trị Lantus có thể cần phải thay đổi liều insulin cơ bản và điều chỉnh điều trị chống đái tháo đường dùng kèm (liều lượng và thời điểm dùng thêm insulin tác dụng ngắn hoặc các thuốc tương đồng tác động nhanh hoặc liều lượng thuốc viên chống đái tháo đường).

Khi điều trị NPH insulin ngày 2 lần chuyển sang dùng Lantus mỗi ngày tiêm một lần, liều ban đầu phải giảm từ 20-30% (so với tổng số IU của NPH insulin mỗi ngày), rồi sau đó chỉnh liều dựa trên đáp ứng của từng bệnh nhân.
Việc giảm liều này ít ra phải được bù đắp phần nào bằng cách tăng insulin vào giờ ăn. Sau đó, phải chỉnh liều một lần nữa tùy từng người.

Ở những bệnh nhân, do tạo ra kháng thể trong quá trình điều trị insulin liều cao có thể cho đáp ứng cải thiện với các insulin tương tự insulin người, kể cả Lantus. Kiểm soát về mặt chuyển hoá, đặc biệt ở những bệnh nhân này, cần được theo dõi trong suốt quá trình chuyển đổi và trong vài tuần đầu sau khi chuyển đổi.

Với sự cải thiện kiểm soát chuyển hóa và hệ quả là tăng độ nhạy cảm với insulin (giảm nhu cầu insulin), có thể cần phải chỉnh liều thêm đối với Lantus và các insulin khác hoặc thuốc uống chống đái tháo đường khác trong phác đồ, có thể cần phải chỉnh liều thêm nữa. Việc chỉnh liều cũng cần thiết trong những trường hợp như thay đổi cân nặng hoặc lối sống, thay đổi giờ tiêm insulin hoặc các trường hợp làm tăng tính cảm nhiễm với hạ đường huyết hoặc tăng đường huyết hay bệnh đi kèm (xem Cảnh báo). Chỉ được thay đổi liều lượng insulin với sự giám sát của thầy thuốc.

Cách dùng

Lantus được tiêm dưới da. Trong một vùng tiêm nhất định, mỗi lần tiêm nên chọn một vị trí tiêm khác nhau.

Vì thời gian tác động kéo dài lệ thuộc việc tiêm dưới da, Lantus không được dùng để tiêm tĩnh mạch vì có thể gây hạ đường huyết nặng.

Quan sát kỹ lọ thuốc trước khi dùng. Chỉ sử dụng nếu dung dịch trong suốt, không màu, không thấy có những hạt tiểu phân rắn và có độ lỏng giống như nước. Vì là một dung dịch, Lantus không cần phải pha trước khi dùng. Bơm tiêm không được chứa thuốc gì khác hoặc cặn thuốc khác.

Trộn hoặc pha chung với bất cứ chế phẩm nào đều có thể làm thay đổi hiệu quả của Lantus hoặc làm thuốc kết tủa và vì vậy nên tránh.

Nên ghi ngày rút thuốc lần đầu lên nhãn lọ.

Cảnh báo

Đại cương

Bệnh nhân cần được hướng dẫn những kỹ năng cần thiết để tự xử trí đái tháo đường, như theo dõi đường huyết, tiêm thuốc đúng kỹ thuật, các biện pháp để nhận biết và xử trí giảm hoặc tăng đường huyết như mô tả dưới đây. Ngoài ra, bệnh nhân phải tập đối phó với những tình huống đặc biệt như sót liều, dùng liều insulin không đủ hay quá cao, ăn uống không đầy đủ hoặc bỏ bữa. Hơn nữa, bệnh nhân và thân nhân phải biết cách nhận biết các dấu hiệu của triệu chứng hạ hoặc tăng đường huyết, những hành động cần làm để xử trí và khi nào phải báo cho bác sĩ.

Trong trường hợp không kiểm soát đường huyết một cách thỏa đáng hoặc có xu hướng xảy ra cơn hạ hoặc tăng đường huyết, cần loại trừ các yếu tố tiềm ẩn (như sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân, việc chọn chỗ tiêm và tiêm đúng kỹ thuật) trước khi xét đến việc chỉnh liều.

Lantus không phải là insulin được chọn để điều trị nhiễm toan-keton đái tháo đường. Thay vào đó, insulin loại thường tiêm tĩnh mạch được khuyến nghị dùng trong những trường hợp này.

Tính hiệu quả và an toàn của Lantus đã được chứng tỏ trên thiếu niên và trên trẻ em từ 6 tuổi trở lên. Vì kinh nghiệm còn hạn chế, không thể đánh giá tính hiệu quả và độ an toàn của Lantus trên trẻ em dưới 6 tuổi, trên bệnh nhân suy chức năng gan hoặc suy thận từ vừa đến nặng.

Trên bệnh nhân suy thận, nhu cầu insulin có thể giảm. Trên người cao tuổi, sự suy giảm chức năng thận có thể dẫn đến giảm nhu cầu insulin.

Trên bệnh nhân suy gan nặng, nhu cầu insulin có thể giảm do giảm khả năng tân sinh đường và giảm chuyển hóa insulin.

Hạ đường huyết

Thời điểm xuất hiện hạ đường huyết tùy thuộc vào đặc điểm tác động của insulin được dùng, và do đó có thể thay đổi khi thay đổi phác đồ điều trị. Do Lantus cung cấp cơ chất insulin kéo dài hơn nên có thể hay gặp hạ đường huyết vào sáng sớm hơn là vào ban đêm.

Cần thận trọng đặc biệt và nên tăng cường theo dõi đường huyết trên những bệnh nhân mà cơn hạ đường huyết có thể có ý nghĩa lâm sàng đặc biệt, như bệnh nhân bị hẹp động mạch vành hoặc mạch máu não (nguy cơ biến chứng tim và não của hạ đường huyết) cũng như trên bệnh nhân có bệnh võng mạc tăng sinh, đặc biệt là khi không được điều trị bằng quang đông (nguy cơ thoáng mù xảy ra sau hạ đường huyết).

Bệnh nhân cần biết được những trường hợp mà triệu chứng báo động của hạ đường huyết có thể giảm nhẹ. Các triệu chứng báo động của hạ đường huyết có thể thay đổi, ít rõ rệt hoặc không nhận thấy trên một vài nhóm có nguy cơ. Đó là những bệnh nhân:

mà sự kiểm soát đường huyết được cải thiện rõ rệt,

có tình trạng hạ đường huyết phát triển từ từ,

cao tuổi,

sau khi đổi từ insulin động vật sang insulin người,

có bệnh thần kinh thực vật,

có tiền sử đái tháo đường,

có bệnh tâm thần,

đồng thời được điều trị với một số loại thuốc.

Những trường hợp như thế có thể gặp hạ đường huyết nặng (và có thể mất tri giác) trước khi bệnh nhân biết được là hạ đường huyết.

Tác động kéo dài của insulin glargine tiêm dưới da có thể làm cho hạ đường huyết chậm hồi phục.

Nếu nhận thấy trị số hemoglobin glycat-hóa bình thường hoặc giảm, cần phải xem xét khả năng tái diễn hoặc không nhận ra các cơn hạ đường huyết (đặc biệt là ban đêm).

Sự tuân thủ của bệnh nhân về liều lượng và chế độ ăn, điều chỉnh sử dụng insulin và nhận biết được các triệu chứng hạ đường huyết là rất cần thiết để giảm nguy cơ hạ đường huyết. Cần theo dõi sát các yếu tố làm tăng tính cảm nhiễm với hạ đường huyết và có thể cần phải chỉnh liều. Các yếu tố đó bao gồm:

thay đổi vùng tiêm thuốc,

sự nhạy cảm insulin được cải thiện (ví dụ như giải quyết được các yếu tố gây stress),

hoạt động thể lực bất thường, gia tăng hoặc kéo dài,

có bệnh gian phát (ví dụ ói mửa, tiêu chảy),

ăn uống không đầy đủ,

bỏ bữa,

uống rượu,

một số rối loạn nội tiết mất bù (ví dụ nhược giáp và suy tuyến tiền yên hoặc suy thượng thận),

điều trị đồng thời với một số thuốc khác.

Bệnh gian phát

Bệnh gian phát cần được tăng cường theo dõi chuyển hóa. Trong nhiều trường hợp, có chỉ định xét nghiệm nước tiểu tìm keton, và đôi khi cần phải chỉnh liều insulin. Nhu cầu insulin thường gia tăng. Bệnh nhân đái tháo đường týp 1 ít ra phải đều đặn dùng một lượng nhỏ carbohydrate, ngay cả khi họ không thể ăn được hoặc ăn rất ít, hoặc bị ói mửa… và không bao giờ được ngưng dùng insulin hoàn toàn.

Lái xe hoặc thực hiện những công việc nguy hiểm khác: Do hậu quả của hạ đường huyết, tăng đường huyết hoặc rối loạn thị giác (xem Tác dụng ngoại ý), khả năng tập trung và phản ứng có thể bị ảnh hưởng, có thể trở thành nguy cơ trong các tình huống đặc biệt cần có những khả năng này (ví dụ lái xe hoặc vận hành máy).

Quá liều

Quá liều insulin có thể gây hạ đường huyết nặng và đôi khi nguy hiểm đến tính mạng.

Các cơn hạ đường huyết nhẹ thường có thể điều trị bằng cách dùng carbohydrate bằng đường uống. Có thể cần phải điều chỉnh liều dùng, chế độ ăn hoặc hoạt động thể lực. Các cơn nặng hơn có hôn mê, co giật hoặc rối loạn thần kinh phải điều trị với glucagon (tiêm bắp hoặc dưới da) hoặc dung dịch glucose ưu trương (truyền tĩnh mạch). Cần duy trì việc dùng chất đường bột và theo dõi kéo dài vì hạ đường huyết có thể tái diễn sau khi đã hồi phục trên lâm sàng.

Chống chỉ định

Dị ứng với insulin glargine hoặc với bất cứ tá dược nào của thuốc.

Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú

Phụ nữ có bệnh đái tháo đường từ trước hoặc trong khi mang thai phải duy trì kiểm soát tốt chuyển hóa trong thai kỳ. Trong ba tháng đầu, nhu cầu insulin thường giảm, nhưng thường tăng lên trong ba tháng giữa và ba tháng cuối. Ngay sau khi sinh, nhu cầu insulin lại giảm nhanh (tăng nguy cơ hạ đường huyết). Do đó, cần theo dõi kỹ đường huyết. Nếu có thai hoặc dự định có thai, nên báo cho bác sĩ biết.

Trên phụ nữ nuôi con bằng sữa mẹ, cần thiết phải điều chỉnh liều dùng và chế độ ăn.

Tương tác

Một số thuốc ảnh hưởng đến chuyển hóa glucose và cần phải chỉnh liều và theo dõi thật sát.

Tăng tác dụng hạ đường huyết và tăng nhạy cảm với hạ đường huyết có thể xảy ra khi dùng chung với thuốc viên chống đái tháo đường, thuốc ức chế men chuyển, disopyramide, fibrate, fluoxetine, thuốc ức chế MAO, pentoxifylline, propoxyphene, salicylate, hoặc kháng sinh sulfonamide.

Giảm tác dụng hạ đường huyết có thể xảy ra khi dùng chung với corticosteroid, danazol, diazoxide, lợi tiểu, glucagon, isoniazid, estrogen và progestogen (ví dụ thuốc viên tránh thai), dẫn chất phenothiazine, somatropin, thuốc cường giao cảm [như epinephrine (adrenaline), salbutamol, terbutaline], hoặc hormone tuyến giáp.

Thuốc chẹn bêta, clonidine, muối lithium hoặc rượu có thể tăng cường hoặc làm yếu tác dụng giảm đường huyết của insulin. Pentamidine có thể gây hạ đường huyết, đôi khi tiếp theo là tăng đường huyết. Hơn nữa, thuốc chẹn bêta - cũng như các thuốc liệt giao cảm khác (như clonidine, guanethidine, reserpine) - còn làm yếu hoặc thậm chí ức chế toàn bộ các triệu chứng báo động của phản ứng hạ đường huyết.

Tác dụng ngoại ý

Hạ đường huyết (xem Cảnh báo) có thể xảy ra nếu liều insulin vượt quá nhu cầu. Hạ đường huyết có thể dẫn đến mất tri giác, và nếu nặng có thể gây nhồi máu cơ tim hoặc tổn thương não và có thể nguy hiểm tính mạng.

Một sự thay đổi rõ rệt nồng độ đường huyết có thể gây rối loạn thị giác thoáng qua. Sự kiểm soát đường huyết được cải thiện lâu dài làm giảm nguy cơ tiến triển của bệnh võng mạc đái tháo đường. Tuy nhiên, điều trị insulin tích cực với sự cải thiện đường huyết đột ngột có thể tạm thời làm cho bệnh võng mạc đái tháo đường xấu hơn. Trên bệnh nhân có bệnh võng mạc tăng sinh, nhất là khi không được điều trị bằng quang đông, các cơn hạ đường huyết nặng có thể làm mất thị lực thoáng qua.

Mô mỡ dưới da có thể teo hoặc phì đại (teo mỡ hoặc phì đại mỡ) ở chỗ tiêm và làm chậm hấp thu insulin và tác dụng thuốc sẽ chậm hơn. Chọn một chỗ tiêm khác cho mỗi lần tiêm có thể giảm hoặc ngừa được những phản ứng này. Các phản ứng khác có thể xảy ra ở chỗ tiêm và cũng có thể lan ra vùng chung quanh. Những phản ứng này gồm đỏ, đau nhiều hơn thường lệ khi tiêm thuốc, ngứa, mề đay, sưng hoặc viêm. Những phản ứng đó thường biến mất trong vòng vài ngày đến vài tuần.

Trong một số hiếm trường hợp, có thể xảy ra phản ứng dị ứng nặng với insulin và các tá dược của thuốc. Đó là phản ứng lan rộng ngoài da, sưng nề da hoặc viêm mạc (phù Quincke), khó thở (co thắt phế quản), tụt huyết áp, và trụy tuần hoàn (sốc). Trong một số trường hợp, các phản ứng dị ứng nặng có thể đe dọa sinh mạng.

Các phản ứng khác

Tiêm insulin có thể hình thành các kháng thể chống insulin. Trong các nghiên cứu lâm sàng, những kháng thể phản ứng chéo với insulin người và insulin glargine được nhận thấy có cùng tần suất ở nhóm dùng NPH insulin và nhóm dùng insulin glargine.Trong một số hiếm trường hợp, sự hiện diện của những kháng thể insulin này buộc phải chỉnh liều.

Hạn hữu, insulin có thể gây giữ muối và nước trong các mô (phù), đặc biệt là sau khi sự kiểm soát chuyển hóa được cải thiện có ý nghĩa bằng liệu pháp tăng cường.

Bảo quản

Trước khi dùng, bảo quản ở 2 - 8 độ C.

Không được để đông lạnh ở ngăn đá. Tránh ánh sáng.

Lọ thuốc trước khi mở, chưa sử dụng: 2 năm.

Lọ thuốc khi đã mở, đã sử dụng: 4 tuần khi bảo quản ở nhiệt độ dưới 25 độ C.

Bảo quản thuốc trong hộp.

Trình bày/Đóng gói

Dung dịch tiêm: hộp 1 lọ 10ml.

Bút tiêm SoloStar: hộp 5 bút x 3ml.

Bài viết cùng chuyên mục

Leucovorin: thuốc giải độc

Leucovorin điều trị quá liều Methotrexate, cấp cứu Methotrexate liều cao, thiếu máu Megaloblastic do thiếu Folate, ung thư đại trực tràng tiến triển, ngộ độc Methanol và độc tính Trimethoprim.

Lavender: thuốc điều trị lo lắng trầm cảm nhức đầu

Lavender được dùng để làm thuốc điều trị lo lắng, trầm cảm, nhức đầu, các vấn đề về giấc ngủ như mất ngủ, rụng tóc từng vùng, đau sau phẫu thuật, bệnh truyền nhiễm và lây truyền qua da.

Levemir FlexPen

Làm tăng nhu cầu insulin: Thuốc tránh thai dạng uống, thiazid, glucocorticoid, hormone tuyến giáp, chất có tác dụng giống thần kinh giao cảm, hormone tăng trưởng, danazol.

Lenvatinib: thuốc điều trị ung thư

Lenvatinib được sử dụng để điều trị Ung thư tuyến giáp biệt hóa, Ung thư biểu mô tế bào thận, Ung thư biểu mô tế bào gan, Ung thư nội mạc tử cung.

Lariam

Lariam tác dụng trên thể vô tính nội hồng cầu của ký sinh trùng sốt rét trên người: Plasmodium falciparum. P. vivax, P. malariae và P. ovale.

Lazibet MR: thuốc điều trị đái tháo đường tuýp 2

Lazibet MR được chỉ định điều trị đái tháo đường không phụ thuộc insulin typ 2 mà chế độ ăn kiêng đơn thuần không kiểm soát được glucose – huyết. Lazibet MR nên dùng cho người cao tuổi bị đái tháo đường.

Locabiotal

Ở người, sau khi dùng thuốc bằng đường hít, không phát hiện thấy fusafungine trong huyết tương do hoạt chất chính đã bám vào niêm mạc đường hô hấp.

Lisinopril/Hydrochlorothiazide

Lisinopril/Hydrochlorothiazide là một loại thuốc kết hợp dùng để điều trị tăng huyết áp  (huyết áp cao). Hạ huyết áp có thể làm giảm nguy cơ đột quỵ hoặc  đau tim.

Levocetirizine: thuốc kháng histamine thế hệ thứ hai

Levocetirizine là thuốc kháng histamine không kê đơn được sử dụng để làm giảm các triệu chứng dị ứng như chảy nước mắt, chảy nước mũi, ngứa mắt/mũi, hắt hơi, nổi mề đay và ngứa.

Leucodinine B

Điều trị tại chỗ các trường hợp tăng sắc tố mélanine mắc phải, đặc biệt trong: chứng da đồi mồi ở người lớn tuổi, nhiễm hắc tố sau phẫu thuật hoặc do hóa chất (nước hoa).

Levetiracetam: Cerepax, Keppra, Letram, Levatam, Levecetam, Levepsy, Levetral, Tirastam, Torleva, thuốc điều trị động kinh

Levetiracetam, dẫn xuất pyrolidin, là một thuốc chống co giật có cấu trúc hóa học không liên quan đến các thuốc điều trị động kinh khác hiện có.

Levonorgestrel (dưới da)

Levonorgestrel cấy dưới da là một bộ tránh thai có tác dụng dài ngày (5 năm). Bộ gồm có 6 nang mềm đóng kín làm bằng polydimethylsiloxan để giải phóng levonorgestrel trong 5 năm.

Lipirus

Chống chỉ định. Quá mẫn với thành phần thuốc. Viêm gan tiến triển hoặc men gan tăng dai dẳng trong máu không giải thích được. Phụ nữ có thai, cho con bú. Tránh sử dụng với tipranavir + ritonavir, telaprevir.

Licorice: chiết xuất cam thảo

Các công dụng của Licorice bao gồm suy vỏ thượng thận, viêm khớp, viêm phế quản, ho khan, loét dạ dày, viêm dạ dày, nhiễm trùng, ung thư tuyến tiền liệt, viêm họng, lupus ban đỏ hệ thống và viêm đường hô hấp trên.

Lycopus: thuốc cải thiện chuyển hóa tế bào

Lycopus sử dụng cho cường giáp, hội chứng tiền kinh nguyệt, đau vú, căng thẳng, mất ngủ và chảy máu, đặc biệt là chảy máu cam và chảy máu nhiều trong thời kỳ kinh nguyệt.

Levofloxacin: Dianflox, Dovocin, Draopha fort, thuốc kháng sinh nhóm quinolon

Levofloxacin là một kháng sinh tổng hợp có phổ rộng thuộc nhóm quinolon dẫn chất fluoroquinolon, cũng như các fluoroquinolon khác, levofloxacin có tác dụng diệt khuẩn do ức chế enzym topoisomerase II.

Lidocain

Thuốc tê tại chỗ phong bế cả sự phát sinh và dẫn truyền xung động thần kinh bằng cách giảm tính thấm của màng tế bào thần kinh với ion natri.

Lomexin

Lomexin có hoạt chất chính là fenticonazole nitrate, đây là một dẫn xuất mới của imidazole do hãng bào chế Recordati của Ý tổng hợp, có hoạt tính kháng nấm và kháng khuẩn rất tốt.

Luvox

Cơn trầm cảm chủ yếu. khởi đầu liều đơn 50 đến 100 mg, buổi tối. Tăng dần đến khi đạt liều có hiệu lực, có thể đến 300 mg/ngày. Dùng ít nhất 6 tháng sau khi khỏi giai đoạn trầm cảm.

Lezinsan: thuốc điều trị triệu chứng viêm mũi dị ứng

Lezinsan điều trị triệu chứng viêm mũi dị ứng (kể cả viêm mũi dị ứng dai dẳng) và mày đay ở người lớn và trẻ em trên 6 tuổi.

Lacteol fort

Hoạt chất chính là những sản phẩm chuyển hóa được chế biến từ chủng Lactobacillus acidophilus chết sau khi đã cấy trong môi trường lactoserum.

Linaclotide

Linaclotide là một loại thuốc theo toa được sử dụng để điều trị hội chứng ruột kích thích và táo bón vô căn mãn tính.

Lisonorm

Bệnh nhân suy gan/thận, thiếu hụt thể tích và/hoặc mất natri do dùng thuốc lợi niệu, hoặc mất dịch do những nguyên nhân khác, đang thẩm tách lọc máu, gạn tách lipoprotein tỷ trọng thấp.

Lactobacillus acidophilus: Abiiogran, Antibio Granules, vi khuẩn sinh acid lactic

Lactobacillus acidophilus là một trực khuẩn vẫn thường cư trú ở đường tiêu hoá, có khả năng sinh ra acid lactic, do đó tạo ra một môi trường không thuận lợi cho sự phát triển của các vi khuẩn.

Laxaton

Các loại táo bón chức năng: táo bón mãn tính, táo bón ở người cao tuổi và phụ nữ sau khi sinh, táo bón do thuốc, táo bón ở trẻ em, táo bón xảy ra đồng thời với bệnh tim hoặc sau phẫu thuật hậu môn, trực tràng.