- Trang chủ
- Thuốc A - Z
- Thuốc gốc và biệt dược theo vần L
- Lamzidivir: thuốc điều trị suy giảm miễn dịch cho bệnh nhân HIV
Lamzidivir: thuốc điều trị suy giảm miễn dịch cho bệnh nhân HIV
Lamzidivir là thuốc kháng virus kết hợp, được chỉ định cho điều trị nhiễm HIV ở người lớn và trẻ em từ 12 tuổi trở lên, làm tăng khả năng miễn dịch (lượng CD4+ 500/ml).
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Hoạt chất: Lamivudine + Zidovudine.
Phân loại: Thuốc kháng virus điều trị nhiễm HIV. Dạng kết hợp
Generic: Lamivudine + Zidovudine.
Dạng thuốc và hàm lượng
Viên nén bao phim: Lamivudin 150mg, zidovudin 300mg.
Chỉ định
Lamivudine + Zidovudine được chỉ định trong liệu pháp kết hợp các thuốc kháng retrovirus để điều trị nhiễm HIV.
Lamivudine + Zidovudine là thuốc kháng virus kết hợp, được chỉ định cho điều trị nhiễm HIV ở người lớn và trẻ em từ 12 tuổi trở lên, làm tăng khả năng miễn dịch (lượng CD4+ 500/ml).
Lamivudin kết hợp với zidovudin làm giảm lượng virus HIV-1 và tăng lượng CD4+, hiệu quả trị liệu là giảm nguy cơ nhiễm bệnh và tử vong.
Cách dùng
Lamivudine + Zidovudine có thể uống cùng hoặc không cùng với thức ăn.
Để đảm bảo uống toàn liều, nên nuốt viên thuốc, không nghiền. Đối với bệnh nhân không thể nuốt nguyên viên, nghiền nát viên, cho thêm vào một lượng nhỏ thức ăn lỏng hoặc chất lỏng, cần dùng ngay.
Liều dùng
Người lớn và thanh thiếu niên nặng ≥ 30kg: Liều khuyến cáo là 1 viên x 2 lần/ngày.
Trẻ em cân nặng > 21kg đến 30kg: Liều uống khuyến cáo là 1/2 viên vào buổi sáng, 1 viên vào buổi tối. Nếu không dung nạp đường tiêu hóa, có thể uống 1/2 viên x 3 lần/ngày để cải thiện dung nạp.
Trẻ em cân nặng 14-21 kg: Liều uống khuyến cáo là 1/2 viên x 2 lần/ngày.
Điều chỉnh liều: Do ở dạng kết hợp với liều cố định, Lamivudine + Zidovudine không nên chỉ định cho những bệnh nhân cần điều chỉnh liều như những người suy giảm chức năng thận (độ thanh thải creatinin ≤ 50 mL/phút), bệnh nhân suy giảm chức năng gan, bệnh nhân có phản ứng không mong muốn về huyết học hoặc những bệnh nhân đang bị tác dụng không mong muốn do liều.
Chống chỉ định
Quá mẫn với bất cứ thành phần nào trong công thức.
Chống chỉ định zidovudin với bệnh nhân có số lượng bạch cầu đa nhân trung tính thấp bất thường (< 0,75 x 109/lít) hoặc nồng độ hemoglobin thấp bất thường (< 7,5 g/dL hoặc 4,65 mmol/lít). Do đó, chống chỉ định dùng Lamivudine + Zidovudine cho những bệnh nhân này.
Thận trọng
Nhiễm khuẩn cơ hội: Bệnh nhân dùng Lamivudine + Zidovudine hoặc bất kỳ liệu pháp kháng retrovirus khác có thể tiếp tục tiến triển nhiễm trùng cơ hội và các biến chứng khác của nhiễm HIV. Do đó bệnh nhân cần được theo dõi lâm sàng chặt chẽ bởi các bác sĩ có kinh nghiệm trong điều trị nhiễm HIV.
Phản ứng không mong muốn về huyết học: Thiếu máu, giảm bạch cầu trung tính và giảm bạch cầu (thường sau giảm bạch cầu trung tính) có thể xảy ra ở những bệnh nhân dùng zidovudin. Những triệu chứng này xảy ra thường xuyên hơn ở liều zidovudin cao hơn (1200-1500 mg/ngày) và ở những bệnh nhân bị suy tủy trước khi điều trị, đặc biệt với bệnh HIV tiến triển. Do đó, các thông số huyết học cần được theo dõi cẩn thận ở những bệnh nhân dùng Lamivudine + Zidovudine.
Viêm tụy: Các trường hợp viêm tụy hiếm khi xảy ra ở những bệnh nhân được điều trị với lamivudin và zidovudin. Tuy nhiên không rõ những trường hợp này là do điều trị kháng retrovirus hoặc do bệnh HIV hay không. Ngừng điều trị bằng Lamivudine + Zidovudine ngay nếu xảy ra các dấu hiệu, triệu chứng lâm sàng, hoặc những bất thường xét nghiệm liên quan đến viêm tụy.
Nhiễm acid lactic: Đã có báo cáo nhiễm acid lactic thường liên quan với gan to và gan nhiễm mỡ khi sử dụng zidovudin. Các triệu chứng ban đầu (tăng lactat huyết triệu chứng) bao gồm các triệu chứng tiêu hóa lành tính (buồn nôn, nôn và đau bụng), khó chịu không xác định, chán ăn, giảm cân, các triệu chứng hô hấp (thở nhanh và/hoặc thở sâu) hoặc các triệu chứng thần kinh (bao gồm suy yếu vận động). Nhiễm acid lactic có tỷ lệ tử vong cao và có thể liên quan với viêm tụy, suy gan hoặc suy thận. Nhiễm acid lactic thường xảy ra sau một vài hoặc nhiều tháng điều trị. Nên ngưng điều trị bằng zidovudin nếu tăng lactat huyết triệu chứng và nhiễm toan chuyển hóa hoặc nhiễm toan lactic, gan to tiến triển, hoặc nồng độ aminotransferase tăng nhanh. Cần thận trọng khi dùng zidovudin cho bất kỳ bệnh nhân nào (đặc biệt là phụ nữ béo phì) với bệnh gan to, viêm gan hoặc các yếu tố nguy cơ khác được biết đến của bệnh gan và gan nhiễm mỡ (bao gồm các thuốc nhất định và rượu). Bệnh nhân đồng nhiễm viêm gan C và điều trị với interferon alpha và ribavirin có nguy cơ đặc biệt. Bệnh nhân có nguy cơ cao nên được theo dõi chặt chẽ.
Rối loạn chức năng của ty lạp thể: Các chất tương tự nucleosid và nucleotid đã được chứng minh in vitro và in vivo gây ra mức độ biến đổi của tổn thương ty thể. Đã có các báo cáo về rối loạn chức năng của ty lạp thể ở trẻ nhiễm HIV tiếp xúc trong tử cung và/hoặc sau sinh đối với các chất tương tự nucleosid. Các tác dụng không mong muốn chính được báo cáo là rối loạn huyết học (thiếu máu, giảm bạch cầu trung tính), rối loạn chuyển hóa (tăng lipid huyết). Những phản ứng này thường thoáng qua. Một số rối loạn thần kinh khởi phát muộn đã được báo cáo (ưu trương, co giật, hành vi bất thường). Các rối loạn thần kinh là thoáng qua hoặc vĩnh viễn hiện vẫn chưa được biết. Bất cứ trẻ nào tiếp xúc trong tử cung với các chất tương tự nucleosid và nucleotid, ngay cả trẻ em âm tính với HIV, cần theo dõi lâm sàng và xét nghiệm và nghiên cứu đầy đủ về rối loạn chức năng ty lạp thể trong trường hợp có dấu hiệu hoặc triệu chứng liên quan.
Teo mô mỡ: Điều trị bằng zidovudin có liên quan với mất lớp mỡ dưới da, có liên quan đến độc tính của ty lạp thể. Tỷ lệ và mức độ nghiêm trọng của teo mô mỡ có liên quan đến nồng độ tích lũy. Lượng mỡ mất đi thể hiện rõ nhất ở mặt, tay chân và mông, có thể không hồi phục khi chuyển sang một chế độ không dùng zidovudin. Bệnh nhân cần được thường xuyên đánh giá các dấu hiệu teo mô mỡ sau khi điều trị bằng zidovudin và các sản phẩm có chứa zidovudin. Nên chuyển sang phác đồ điều trị thay thế nếu nghi ngờ về sự phát triển của teo mô mỡ.
Các thông số cân nặng và chuyển hóa: Sự gia tăng cân nặng và nồng độ lipid huyết và glucose huyết có thể xảy ra trong khi điều trị kháng virus. Những thay đổi này có thể liên quan một phần đến việc kiểm soát bệnh và lối sống. Đối với lipid, có một số bằng chứng do tác dụng điều trị, trong khi tăng cân không có bằng chứng liên quan đến bất kỳ điều trị nào. Theo dõi lipid huyết và glucose huyết để thiết lập các hướng dẫn trong điều trị HIV. Rối loạn lipid nên được kiểm soát lâm sàng thích hợp.
Hội chứng phục hồi miễn dịch: Ở bệnh nhân nhiễm HIV suy giảm miễn dịch nặng tại thời điểm điều trị kết hợp kháng virus (CART), phản ứng viêm với các mầm bệnh cơ hội không có triệu chứng hoặc còn sót lại có thể phát sinh và gây ra biểu hiện lâm sàng nặng, hoặc tăng các triệu chứng. Thông thường, những phản ứng này đã được quan sát thấy trong vòng vài tuần đầu tiên hoặc tháng đầu sau khi bắt đầu điều trị kết hợp kháng retrovirus. Bất kỳ triệu chứng viêm nào nên được đánh giá và điều trị khi cần thiết. Rối loạn tự miễn dịch (như bệnh Graves’) cũng được báo cáo xảy ra trong thiết lập phục hồi miễn dịch; tuy nhiên, thời gian từ lúc báo cáo đến lúc khởi phát rất thay đổi và những triệu chứng này có thể xảy ra nhiều tháng sau khi bắt đầu điều trị.
Bệnh gan: Nếu lamivudin được sử dụng đồng thời để điều trị HIV và HBV, thông tin liên quan đến việc sử dụng của lamivudin trong điều trị bệnh viêm gan B có trong hướng dẫn sử dụng thuốc Zeffix. Tính an toàn và hiệu quả của zidovudin chưa được xác lập ở bệnh nhân có rối loạn gan tiềm ẩn đáng kể. Bệnh nhân viêm gan B hoặc C mạn tính và điều trị bằng CART có nguy cơ tăng các tác dụng không mong muốn nghiêm trọng trên gan và có khả năng gây tử vong. Trong trường hợp điều trị đồng thời CART với các thuốc viêm gan B hoặc C, tham khảo thêm thông tin liên quan ở các thuốc này. Nếu ngưng dùng Lamivudine + Zidovudine ở bệnh nhân đồng nhiễm virus viêm gan B, khuyến cáo theo dõi định kỳ xét nghiệm chức năng gan và các dấu hiệu của sự sao chép HBV trong 4 tháng, vì ngưng dùng lamivudin có thể dẫn đến viêm gan cấp tính. Bệnh nhân rối loạn chức năng gan trước đó, bao gồm cả viêm gan mạn tính hoạt động, có tần số chức năng gan bất thường tăng khi điều trị CART, và cần được theo dõi theo phương pháp chuẩn. Nếu có bằng chứng về sự xấu đi của bệnh gan ở những bệnh nhân này, cần xem xét gián đoạn hoặc ngừng điều trị.
Bệnh nhân đồng nhiễm virus viêm gan C: Không khuyến cáo sử dụng đồng thời ribavirin với zidovudin do tăng nguy cơ thiếu máu.
Hoại tử xương: Mặc dù nguyên nhân được cho là đa yếu tố (bao gồm cả sử dụng corticosteroid, uống rượu, suy giảm miễn dịch nặng, chỉ số khối cơ thể cao hơn), đã có báo cáo các trường hợp hoại tử xương đặc biệt ở những bệnh nhân nhiễm HIV tiến triển và/hoặc tiếp xúc lâu dài với CART. Bệnh nhân nên được tư vấn y tế nếu đau và nhức khớp, cứng khớp hoặc khó khăn trong việc di chuyển.
Lamivudine + Zidovudine không nên dùng cùng với các thuốc khác có chứa lamivudin hoặc emtricitabin.
Không khuyến cáo kết hợp lamivudin với cladribin.
Lamivudine + Zidovudine chứa lactose. Không nên dùng thuốc này cho những bệnh nhân có di truyền hiếm gặp không dung nạp galactose, thiếu hụt Lapp lactase hoặc không hấp thu glucose-galactose.
Tác động của thuốc trên người lái xe và vận hành máy móc: Ảnh hưởng trên khả năng lái xe và vận hành máy móc: Không có nghiên cứu về ảnh hưởng của thuốc lên khả năng lái xe và vận hành máy móc. Tuy nhiên, Lamivudine + Zidovudine có thể gây ra các tác dụng không mong muốn trên hệ thần kinh như đau đầu, chóng mặt. Bệnh nhân bị các tác dụng này khi dùng Lamivudine + Zidovudine không nên lái xe và vận hành máy móc.
Sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú
Thời kỳ mang thai
Việc sử dụng zidovudin ở phụ nữ mang thai sau đó điều trị cho trẻ sơ sinh đã cho thấy làm giảm tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con. Các dữ liệu trên phụ nữ có thai dùng lamivudin hoặc zidovudin cho thấy không có độc tính gây quái thai.
Các thành phần có hoạt tính của Lamivudine + Zidovudine có thể ức chế sự sao chép DNA của tế bào và zidovudin đã được chứng minh là chất gây ung thư qua nhau thai trong một nghiên cứu trên động vật.
Đối với bệnh nhân đồng nhiễm viêm gan đang được điều trị với các chế phẩm chứa lamivudin như Lamivudine + Zidovudine và sau đó mang thai, cần xem xét đến khả năng tái phát bệnh viêm gan khi ngưng dùng lamivudin.
Rối loạn chức năng của ty lạp thể: Các chất tương tự nucleosid và nucleotid đã đượcchứng minh in vitro và in vivo gây ra mức độ biến đổi của tổn thương ty lạp thể. Đã có báo cáo về rối loạn chức năng của ty lạp thể ở trẻ âm tính với HIV tiếp xúc chất tương tự nucleosid trong tử cung và/hoặc sau sinh.
Thời kỳ cho con bú
Cả lamivudin và zidovudin được bài tiết vào sữa mẹ ở nồng độ tương tự như trong huyết thanh. Khuyến cáo các mẹ nhiễm HIV không cho con bú trong bất kỳ trường hợp nào nhằm tránh lây nhiễm HIV.
Tác dụng không mong muốn (ADR)
Rất thường gặp (ADR ≥ 1/10), thường gặp (1/100 ≤ ADR < 1/10), ít gặp (1/1000 ≤ ADR < 1/100), hiếm gặp (1/10.000 ≤ ADR < 1/1000), rất hiếm gặp (ADR < 1/10.000).
Do lamivudin
Thường gặp: nhức đầu, mệt mỏi, khó chịu, buồn nôn, tiêu chảy, nôn, đau thượng vị hay chuột rút, mất ngủ, sốt, ho, triệu chứng sổ mũi, phát ban và đau cơ xương.
Có thể tái phát bệnh đau tụy và đau thần kinh ngoại biên.
Do zidovudin
Thiếu máu, giảm bạch cầu đa nhân trung tính. Xảy ra khi sử dụng thuốc liều cao (1200-1500 mg/ngày) và bệnh nhân tiền sử bị nhiễm HIV (có suy tủy), đặc biệt ở bệnh nhân có lượng CD4+ < 100 mm3. Nếu cần nên giảm liều hay ngưng điều trị.
Tỉ lệ bị giảm bạch cầu đa nhân trung tính tăng ở những bệnh nhân có lượng bạch cầu đa nhân trung tính, nồng độ hemoglobin và nồng độ huyết thanh của vitamin B12 thấp khi khởi đầu trị liệu bằng zidovudin, hay ở những bệnh nhân dùng đồng thời paracetamol.
Các phản ứng phụ thường gặp: buồn nôn, nôn mữa, biếng ăn, đau bụng, nhức đầu, phát ban, sốt, đau cơ, dị cảm, mất ngủ, khó chịu, suy nhược và khó tiêu.
Các phản ứng phụ khác: buồn ngủ, tiêu chảy, chóng mặt, ra mồ hôi, khó thở, đầy hơi, lạt miệng, đau ngực, mất nhạy bén, bồn chồn, tiểu lắt nhắt, suy nhược, đau mỏi toàn thân, ớn lạnh, ho, nổi mề đay, ngứa sần và triệu chứng giống cúm.
Hướng dẫn cách xử trí ADR
Ngừng sử dụng thuốc. Với các phản ứng bất lợi nhẹ, thường chỉ cần ngừng thuốc. Trường hợp mẫn cảm nặng hoặc phản ứng dị ứng, cần tiến hành điều trị hỗ trợ (giữ thoáng khí và dùng epinephrin, thở oxygen, dùng kháng histamin, corticoid…).
Tương tác với các thuốc khác
Lamivudine + Zidovudine có chứa lamivudin và zidovudin, do đó bất kỳ tương tác nào được xác định cho từng hoạt chất riêng lẻ đều có liên quan đến Lamivudine + Zidovudine. Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy không có sự tương tác có ý nghĩa về lâm sàng giữa lamivudin và zidovudin.
Zidovudin được chuyển hóa chủ yếu bằng các enzym UGT; sử dụng đồng thời các thuốc cảm ứng hoặc ức chế enzym UGT có thể làm thay đổi mức tiếp xúc với zidovudin. Lamivudin được thanh thải ở thận. Sự bài tiết lamivudin chủ động ở thận qua nước tiểu nhờ trung gian các chất vận chuyển cation hữu cơ (OCTs); sử dụng đồng thời lamivudin với chất ức chế OCT hoặc các thuốc gây độc thận có thể làm tăng mức tiếp xúc với lamivudin.
Lamivudin và zidovudin không được chuyển hóa đáng kể bởi các enzym cytochrom P450 (như CYP 3A4, CYP 2C9 hoặc CYP 2D6) cũng không ức chế hoặc cảm ứng hệ thống enzym này. Do đó, có rất ít tiềm năng tương tác với các chất ức chế protease kháng retrovirus, các chất không nucleosid và các thuốc khác được chuyển hóa chủ yếu bởi các enzym P450.
Zidovudin làm thay đổi nồng độ máu của phenytoin tùy theo từng bệnh nhân. Do đó nên chú ý theo dõi khi chỉ định cho bệnh nhân dùng phối hợp phenytoin và Lamivudine + Zidovudine.
Với paracetamol: làm tăng tỉ lệ bạch cầu đa nhân trung tính, đặc biệt trong trường hợp điều trị bệnh mãn tính. Tuy nhiên, paracetamol không làm tăng nồng độ huyết tương cũng như chuyển hóa glucuronic của zidovudin.
Các thuốc khác như: aspirin, codein, morphin, indomethacin, ketoprofen, naproxen, oxazepam, lorazepam, cimetidin, clofibrat, dapson và isoprinosin có thể làm thay đổi quá trình chuyển hóa của zidovudin do ngăn cản quá trình glucuronic hóa theo hướng cạnh tranh hay ngăn cản trực tiếp quá trình chuyển hóa của các tế bào siêu vi gan. Cần phải cân nhắc cẩn thận khả năng tương tác thuốc của Lamivudine + Zidovudine với các thuốc trên trong trường hợp chỉ định phối hợp khi điều trị lâu dài.
Chỉ định phối hợp (đặc biệt trong trường hợp điều trị cấp tính) với các thuốc độc thận như dapson, thuốc trừ sâu, pyrimethamin, cotrimoxazol, amphotericin, flucytoxin, ganciclovir, interferon, vincristin, vinblastin, và doxorubicin cũng có thể làm tăng nguy cơ ngăn cản tác động của zidovudin. Nếu cần phối hợp trị liệu Lamivudine + Zidovudine với một trong các thuốc trên thì phải theo dõi cẩn thận chức năng thận và các thông số huyết học. Trường hợp cần thiết nên giảm liều của một hoặc các thuốc được chỉ định.
Zidovudin có tác dụng tương phản in vitro với ribavirin và stadvudin. Do đó, nên tránh chỉ định phối hợp Lamivudine + Zidovudine với ribavirin hay stadvudin.
Bệnh nhân sử dụng Lamivudine + Zidovudine vẫn có thể bị nhiễm bệnh cơ hội, có thể phối hợp thuốc kháng khuẩn như cotrimoxazol, pyrimethamin và acyclovir để điều trị dự phòng. Dữ liệu về lâm sàng cho thấy rằng không có dấu hiệu nào chứng tỏ các thuốc này làm tăng nguy cơ ngăn cản tác động của zidovudin.
Quá liều và xử trí
Lamivudin
Có rất ít thông tin về quá liều. Không có thuốc giải độc đặc hiệu. Thẩm tách máu hoặc thẩm tách phúc mạc sau 4 giờ chỉ lấy đi được một lượng không đáng kể. Ngộ độc nặng (viêm tụy, bệnh thần kinh ngoại biên, gan nhiễm mỡ, suy thận cấp, nhiễm toan) xảy ra sau điều trị mà không xảy ra sau khi uống quá liều. Dùng lâu dài có thể gây độc cho ty thể dẫn đến nhiễm toan có hoặc không kèm theo nhiễm mỡ vi thể ở gan. Điều trị ngộ độc nặng bao gồm: Ngừng thuốc, điều trị hỗ trợ, dùng benzodiazepin để an thần và chống co giật, thuốc chống nôn, điều chỉnh toan máu (truyền natri bicarbonat 1-32 mEq/kg, uống hoặc truyền tĩnh mạch riboflavin 50 mg/ngày; truyền L-carnitin 50mg/kg/ngày chia làm 3 lần, mỗi lần truyền 2 giờ cho bệnh nhân không thẩm phân hoặc truyền liên tục 100 mg/kg/ngày cho bệnh nhân đang thẩm phân); dùng thuốc kích thích tạo bạch cầu hạt (nếu bị nhiễm khuẩn có giảm bạch cầu hạt); dùng thuốc gây co mạch nếu bị suy nhiều phủ tạng; theo dõi chặt các dấu hiệu lâm sàng, điện giải, enzym gan, tìm ổ nhiễm khuẩn ở bệnh nhân nhất là nếu có giảm bạch cầu trung tính.
Zidovudin
Những trường hợp quá liều cấp kể cả ở trẻ em lẫn người lớn, đã được thông báo ở mức liều lên tới 50g.
Triệu chứng: Buồn nôn, nôn. Thay đổi về máu thường là nhất thời và không nặng. Một số người bệnh có những triệu chứng thần kinh trung ương không đặc hiệu như đau đầu, chóng mặt, ngủ lơ mơ, ngủ lịm và lú lẫn.
Xử trí: Rửa dạ dày trong vòng 1 giờ hoặc dùng than hoạt.
Điều trị hỗ trợ: Truyền máu, dùng vitamin B12 giúp dự phòng thiếu máu, có thể điều trị co giật bằng diazepam hoặc lorazepam.
Tăng thải trừ: Dùng nhiều liều than hoạt có thể có hiệu quả. Thẩm tách máu có thể loại được các chất chuyển hóa nhưng không có hiệu quả với zidovudin và nói chung không phải là cách thường dùng.
Dược lực học
Lamivudine kết hợp với zidovudine thể hiện tác dụng hiệp đồng chống HIV đối với các chủng phân lập trên lâm sàng được nuôi trong nuôi cấy tế bào HIV – 1 đề kháng với lamivudine bao gồm xuất hiện sự thay đổi acid amin M184V gần với vị trí hoạt động của chuỗi sao chép ngược (RT). Biến dị này xuất hiện cả trong ống nghiệm và trên bệnh nhân nhiễm HIV – 1 được điều trị bằng liệu pháp kháng retrovirus có chứa lamivudine. Đột biến M184V thể hiện sự giảm nhạy cảm đáng kể với lamivudine và cho thấy khả năng sao chép của virus trong ống nghiệm đã giảm bớt. Các nghiên cứu trong ống nghiệm đã chỉ ra rằng các chủng virus đề kháng với zidovudine có thể trở nên nhạy cảm với zidovudine khi chúng đồng thời đề kháng với lamivudine. Tuy nhiên, mối liên quan về lâm sàng của những phát hiện này còn chưa được khẳng định.
Đề kháng chéo do đột biến M184V RT chỉ giới hạn trong các nhóm thuốc kháng retrovirus kiểu ức chế nucleoside. Zidovudine và stavudine vẫn duy trì hoạt tính kháng retrovirus với những chủng HIV – 1 đề kháng với lamivudine. Abacavir vẫn giữ được hoạt tính kháng retrovirus với những chủng HIV – 1 chỉ mang đột biến M184V. Đột biến M184V RT làm giảm nhạy cảm với didanosin và zalcitabin tới 4 lần, ý nghĩa lâm sàng của những phát hiện này còn chưa được biết. Phép thử tính nhạy cảm trong ống nghiệm còn chưa được chuẩn hóa và kết quả có thể khác nhau tùy thuộc các yếu tố về phương pháp.
Lamivudine có tính độc tế bào thấp với các lympho bào ở máu ngoại vi, với các dòng tế bào lympho và đại thực bào trưởng thành, và với các loại tế bào gốc ở tủy xương trong ống nghiệm.
Trong các thử nghiệm lâm sàng, lamivudine khi kết hợp với zidovudine đã làm giảm nồng độ virus HIV – 1 và tăng số lượng tế bào CD4. Dữ liệu lâm sàng lúc kết thúc nghiên cứu chỉ ra rằng lamivudine kết hợp với zidovudine làm giảm đáng kể nguy cơ bệnh tiến triển nặng hơn và tử vong.
Các bằng chứng từ nghiên cứu lâm sàng cho thấy lamivudine kết hợp với zidovudine làm chậm xuất hiện các chủng đề kháng với zidovudine ở các bệnh nhân chưa từng được điều trị kháng retrovirus từ trước.
Lamivudine được sử dụng rộng rãi như 1 thành phần trong liệu pháp kháng retrovirus kết hợp với các thuốc kháng retrovirus khác cùng nhóm (NRTIs) hay khác nhóm (PIs, các chất ức chế protease).
Liệu pháp kháng retrovirus phối hợp có chứa lamivudine được thấy là có hiệu quả đối với bệnh nhân chưa từng được điều trị kháng retrovirus cũng như bệnh nhân đang nhiễm virus có đột biến M184V.
Mối quan hệ giữa độ nhạy cảm trong ống nghiệm của HIV với lamivudine và đáp ứng lâm sàng với liệu pháp kết hợp có lamivudine vẫn đang được nghiên cứu. Lamivudine ở liều 100 mg, ngày 1 lần cũng có hiệu lực điều trị đối với các bệnh nhân nhiễm HBV mãn tính. Tuy nhiên, để điều trị nhiễm HIV thì chỉ đến liều 300 mg lamivudine mỗi ngày mới có hiệu quả. Lamivudine chưa được nghiên cứu nhiều trên bệnh nhân nhiễm HIV đồng thời với HBV
Lamivudin là một chất tương tự nucleosid tổng hợp. Trong tế bào, lamivudin được phosphoryl hóa thành chất chuyển hóa 5’-triphosphat có hoạt tính, lamivudin triphosphat (3TC-TP). Cơ chế tác động chính của 3TC-TP là ức chế men sao chép ngược (RT) của HIV-1 thông qua việc kết thúc chuỗi DNA sau khi sự hợp nhất của chất tương tự nucleosid. 3TC-TP là chất ức chế yếu polymerase DNA (alpha, beta, gamma) của tế bào.
Zidovudin là một chất tương tự nucleosid tổng hợp. Trong tế bào, zidovudin được phosphoryl hóa thành chất chuyển hóa 5’-triphosphat có hoạt tính, zidovudin triphosphat (ZDV-TP). Cơ chế tác động chính của ZDV-TP là ức chế RT thông qua việc kết thúc chuỗi DNA sau khi sự hợp nhất của chất tương tự nucleosid. ZDV-TP là chất ức chế yếu polymerase DNA (alpha và gamma) của tế bào và được ghi nhận là có sát nhập vào DNA của các tế bào trong nuôi cấy.
Dược động học
Hấp thu
Lamivudin và zidovudin được hấp thu qua đường tiêu hóa. Ở người lớn, sinh khả dụng đường uống của lamivudin từ 80-85% và của zidovudin từ 60-70%.
Phân bố
Tỷ lệ trung bình nồng độ lamivudin và zidovudin trong dịch não tủy (CSF)/huyết thanh tương ứng khoảng 0,12 và 0,5 sau khi uống 2-4 giờ.
Chuyển hóa
Lamivudin ít bị chuyển hóa. Lamivudin bị thải trừ chủ yếu qua thận dưới dạng không đổi. Khả năng tương tác chuyển hóa của các thuốc với lamivudin thấp do mức độ chuyển hóa ở gan thấp (5-10%) và gắn kết với huyết tương thấp.
5′-glucuronid là chất chuyển hóa chính của zidovudin trong huyết tương và nước tiểu, chiếm khoảng 50-80% liều dùng và thải trừ qua thận.
Thải trừ
Thời gian bán thải của lamivudin là 5-7 giờ. Độ thanh thải toàn thân trung bình của lamivudin khoảng 0,32 lít/giờ/kg, chủ yếu ở thận (> 70%) thông qua hệ thống vận chuyển cation hữu cơ. Các nghiên cứu ở bệnh nhân suy thận cho thấy sự thải trừ lamivudin bị ảnh hưởng bởi rối loạn chức năng thận.
Từ các nghiên cứu với zidovudin đường tiêm tĩnh mạch, thời gian bán thải cuối cùng trung bình trong huyết tương là 1,1 giờ và độ thanh thải toàn thân trung bình là 1,6 lít/giờ/kg. Độ thanh thải thận của zidovudin ước tính 0,34 lít/giờ/kg cho thấy thuốc được lọc qua cầu thận và bài tiết chủ động qua ống thận. Nồng độ zidovudin tăng ở những bệnh nhân suy thận tiến triển.
Bảo quản
Nơi khô, tránh ánh sáng, nhiệt độ dưới 30°C.
Bài viết cùng chuyên mục
Linaclotide
Linaclotide là một loại thuốc theo toa được sử dụng để điều trị hội chứng ruột kích thích và táo bón vô căn mãn tính.
Lenvatinib: thuốc điều trị ung thư
Lenvatinib được sử dụng để điều trị Ung thư tuyến giáp biệt hóa, Ung thư biểu mô tế bào thận, Ung thư biểu mô tế bào gan, Ung thư nội mạc tử cung.
Lomustin: thuốc chống ung thư, tác nhân alkyl hóa
Lomustin là dẫn xuất nitrosoure, được coi là thuốc alkyl hóa dùng để chữa ung thư, Lomustin rất tan trong lipid, dễ hấp thu qua đường uống và chuyển hóa thành các chất có hoạt tính
Leuco 4
Không có nghiên cứu về tác dụng gây quái thai của thuốc trên động vật, trên lâm sàng, cho đến nay không có trường hợp nào gây dị dạng, hay độc phôi được báo cáo.
Livact
Cải thiện tình trạng giảm albumin máu ở bệnh nhân có giảm albumin máu (mặc dù lượng hấp thụ từ chế độ ăn đầy đủ), có tổng lượng hấp thụ calo và protein từ chế độ ăn bị hạn chế.
Leflunomid: Arastad 20, Lefra 20, thuốc điều hòa miễn dịch kháng viêm khớp
Leflunomid được coi là tiền thuốc vì sau khi uống, thuốc được chuyển hóa rất nhanh và hầu như hoàn toàn thành chất chuyển hóa có tác dụng là teriflunomid.
Loperamid
Loperamid là một thuốc trị ỉa chảy được dùng để chữa triệu chứng các trường hợp ỉa chảy cấp không rõ nguyên nhân và một số tình trạng ỉa chảy mạn tính.
Legalon
Legalon có tác dụng bảo vệ tế bào gan, và chức năng của các cấu trúc xung quanh, và bên trong tế bào gan, giúp gan hoạt động hiệu quả hơn, và tăng hiệu quả thải độc của gan.
L-Bio: thuốc thay thế vi khuẩn chí bị mất do dùng kháng sinh
Thuốc này chỉ là một thứ yếu trong điều trị ỉa chảy chưa có biến chứng mất nước và điện giải. Trước khi dùng bất cứ dạng thuốc nào, cần phải đánh giá đúng tình trạng mất nước và điện giải của người bệnh.
Lazibet MR: thuốc điều trị đái tháo đường tuýp 2
Lazibet MR được chỉ định điều trị đái tháo đường không phụ thuộc insulin typ 2 mà chế độ ăn kiêng đơn thuần không kiểm soát được glucose – huyết. Lazibet MR nên dùng cho người cao tuổi bị đái tháo đường.
Lipanthyl
Lipanthyl! Tác dụng giảm cholestérol máu là do làm giảm các phân đoạn gây xơ vữa động mạch có tỉ trọng thấp (VLDL và LDL), cải thiện sự phân bố cholestérol trong huyết tương.
Lipvar: thuốc điều trị tăng mỡ máu nhóm statin
Lipvar được sử dụng trong các trường hợp: Tăng cholesterol toàn phần, LDL cholesterol, apolipoprotein B và triglycerid ở các bệnh nhân có tăng cholesterol máu nguyên phát, tăng lipid máu hỗn hợp, tăng triglycerid máu.
Lorastad D: thuốc điều trị viêm mũi dị ứng và nổi mề đay
Lorastad D được chỉ định dùng để giảm triệu chứng của: Chứng viêm mũi dị ứng. Chứng nổi mày đay.
Lipobay
Lipobay! Cerivastatin là một chất đồng phân lập thể (enantiomer) tổng hợp tinh khiết, có tác dụng ức chế cạnh tranh sự tổng hợp cholesterol.
Lactacyd
Cũng như đối với tất cả các loại thuốc tẩy (xà bông, chất hoạt hóa bề mặt), cần rửa lại thật kỹ sau khi dùng,Tránh dùng nhiều lần trên da khô, chàm cấp tính, vùng da băng kín.
Luvox
Cơn trầm cảm chủ yếu. khởi đầu liều đơn 50 đến 100 mg, buổi tối. Tăng dần đến khi đạt liều có hiệu lực, có thể đến 300 mg/ngày. Dùng ít nhất 6 tháng sau khi khỏi giai đoạn trầm cảm.
Lithium
Lithium, thuốc điều trị rối loạn lưỡng cực. Nên theo dõi lithium huyết thanh 12 giờ sau khi dùng liều, hai lần mỗi tuần cho đến khi nồng độ huyết thanh và tình trạng lâm sàng ổn định, và mỗi tháng sau đó.
Lacosamide: thuốc chống co giật
Lacosamide là một loại thuốc theo toa được sử dụng để điều trị các cơn động kinh khởi phát một phần và các cơn động kinh co cứng-co giật toàn thể nguyên phát.
Losartan / Hydrochlorothiazide
Losartan / Hydrochlorothiazide là sự kết hợp của thuốc theo toa được sử dụng để điều trị huyết áp cao và phì đại tâm thất trái liên quan đến huyết áp cao.
Lysinkid-Ca: thuốc kích thích ăn cho trẻ em
Sirô Lysinkid - Ca giúp kích thích ăn cho trẻ em và thanh thiếu niên trong giai đoạn tăng trưởng, đang theo một chế độ ăn kiêng đặc biệt hay trong thời kỳ dưỡng bệnh (sau khi bệnh, nhiễm khuẩn hoặc phẫu thuật) giúp phục hồi sức khỏe nhanh chóng.
Levothyroxin
Levothyroxin là chất đồng phân tả tuyền của thyroxin, hormon chủ yếu của tuyến giáp. Tác dụng dược lý chính của hormon giáp ngoại sinh là tăng tốc độ chuyển hóa của các mô cơ thể.
Lacteol fort
Hoạt chất chính là những sản phẩm chuyển hóa được chế biến từ chủng Lactobacillus acidophilus chết sau khi đã cấy trong môi trường lactoserum.
Lacteol: thuốc điều trị rối loạn tiêu hóa do sử dụng kháng sinh
Lacteol phòng ngừa và điều trị các rối loạn tiêu hóa do sử dụng kháng sinh hay hóa liệu pháp, sự lên men bất thường ở đường ruột: trướng bụng, tiêu chảy, táo bón, viêm ruột cấp và mãn tính ở trẻ em và người lớn.
Lomexin
Lomexin có hoạt chất chính là fenticonazole nitrate, đây là một dẫn xuất mới của imidazole do hãng bào chế Recordati của Ý tổng hợp, có hoạt tính kháng nấm và kháng khuẩn rất tốt.
Lincomycin hydrochlorid
Lincomycin là kháng sinh thuộc lincosamid. Lincomycin có tác dụng chống vi khuẩn như clindamycin, nhưng ít hiệu lực hơn. Thuốc chủ yếu kìm khuẩn ưa khí Gram dương và có phổ kháng khuẩn rộng đối với vi khuẩn kỵ khí.