Dinh dưỡng và bù dịch giai đoạn cuối đời

2016-01-04 01:59 PM

Nếu như nhịn đói có thể làm người bệnh bị yếu, ngủ lịm, vầ lãnh đạm thì việc ngừng dinh dưỡng ở giai đoạn cuối chỉ gây đói hoặc tình trạng nguy cấp không đáng kể.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Gần đây, sự nhận biết của các bác sỹ dưỡng đường về các lợi ích y học tiềm tàng đối với việc ngừng hay tiếp tục bù dịch và nuôi dưỡng nhân tạo (bao gồm muối ăn qua ống thông, dinh dưỡng ngoài đường tiêu hoá và truyền dịch tĩnh mạch) ở giai đoạn cuối cuộc đời mà không gây ra hoặc làm tăng sự bất ổn của người bệnh ngày càng tăng.

Khi không có sự nuôi dưỡng, thời gian kéo dài cuộc sống của người bệnh được xác định phần nhiều là dựa vào dự trữ mỡ của người bệnh. Một người trưởng thành bình thường đã được nuôi dưỡng tốt có thể hi vọng sống được 70 ngày nhờ sự tiêu hủy calo dự trữ. Ở giai đoạn cuối cuộc đời, cho ăn khi không đói và dinh dưỡng nhân tạo sẽ đi kèm với một số các biến chứng tiềm tàng. Ép ăn có thể gây buồn nôn, nôn ở người bệnh và sẽ dẫn đến ỉa chảy trong tình trạng kém hấp thu. Nuôi dưỡng có thể làm tăng tiết dịch đường miệng và đường thở nên có nguy cơ bị nghẹt thở; sặc, và khó thở. Nuôi ăn qua ống thông mũi dạ dày hoặc qua ống mở dạ dày và dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa hoàn toàn tạo cho người bệnh các nguy cơ nhiễm trùng, chảy máu cam, tràn khí vùng phổi, rối loạn điện giải và sặc, đồng thời cũng phải ngăn giữ người bệnh mê sảng để phòng ngừa bít tắc catheter và ống thông.

Nếu như nhịn đói có thể làm người bệnh bị yếu, ngủ lịm, vầ lãnh đạm thì việc ngừng dinh dưỡng ở giai đoạn cuối chỉ gây đói hoặc tình trạng nguy cấp không đáng kể. Người bệnh thường không thấy đói khi bị thiếu hoàn toàn năng lượng và tình trạng tăng ceton huyết liên quan thiếu năng lượng sẽ tạo cảm giác khỏe, giảm đau, và khoan khoái nhẹ. Tuy nhiên, chỉ cần đưa vào cơ thể các lượng nhỏ carbonhyrat (như dung dịch dextrose tĩnh mạch 5%) sẽ chặn được sản xuất ra ceton và có thể làm cùn các tác dụng tích cực của việc nhịn đói hoàn toàn.

Ngừng cung cấp dịch có thể dẫn đến chết trong một vài ngày đến một tháng. Chất lượng cuộc sống của người bệnh ở giai đoạn cuối có thể phải chịu ảnh hưởng không mong muốn bởi dịch bổ sung do sự phân bố của nó và do sự tiết dịch đường thở (gây sặc hoặc “tiếng nấc hấp hối”), đa niệu, và tiến triển hoặc trầm trọng cổ trướng, tràn dịch màng phổi hoặc các tràn dịch khác, phù ngoại biên và phù phổi.

Mặc dù vẫn chưa rõ ràng là ở chừng mực nào thì việc từ chối cung cấp dịch ở giai đoạn cuối sẽ tạo ra một cảm giác khó chịu vì khát, song với bất kỳ cảm giác khát nào như thế thì có thể làm giảm đơn giản bằng cách làm ẩm miệng. Các miếng nước đá, kẹo cứng, miếng gạc, hoặc một dung dịch có các thành phần bằng nhau gồm dung dịch nystatin, lidocain nhớt, diphendydramin và dung dịch súc miệng có bạc hà là rất hữu ích.

Mỗi người bệnh ở giai đoạn cuối cuộc đời đều có quyền từ chối cung cấp dinh dưỡng và dịch. Tuy nhiên, việc cung cấp hoặc ngừng thức ăn hoặc nước qua đường miệng không chỉ đơn thuần là một quyết định y học bởi vì làm như thế có thể có ý nghĩa xã hội và văn hóa sâu sắc đối với người bệnh, gia đình, và bác sỹ. Việc ngừng cung cấp dinh dưỡng và dịch qua ruột hoặc ngoài đường tiêu hóa phải vượt qua thách thức với quan niệm rằng việc nuôi dưỡng là một cách biểu lộ của lòng trắc ẩn và tình yêu. Trên thực tế, người bệnh ở giai đoạn cuối, đã lựa chọn việc ngừng việc cung cấp dịch và dịch dưỡng lẽ ra không nhất thiết là phải chịu đựng đói và khát. Có thể động viên gia đình và bè bạn giãi bày tình yêu và sự chăm sóc theo các cách khác hơn là những nô lực nhồi ăn hay truyền bù dịch và dinh dưỡng đường tiêm truyền cho người bệnh.

Bài viết cùng chuyên mục

Nền tảng đạo lý và pháp luật đối với giai đoạn cuối đời

Có ba điều đáng lưu ý thêm về mặt đạo đức cần thiết trong chăm sóc giai đoạn cuối. Điều đầu tiên là các nguyên tắc đạo đức quan trọng có thể mâu thuẫn, đụng độ nhau.

Các định hướng tiến bộ đối với giai đoạn cuối đời

Các nghiên cứu đã cho thấy rằng cả bác sỹ và cả gia đình người bệnh đều không thể dự đoán tốt hơn là có cơ hội để biết được các mong muốn của người bệnh.

Các hạn chế trong chăm sóc bệnh nhân ở giai đoạn cuối

Các bác sỹ có thể bị hạn chế trong chăm sóc bệnh nhân giai đoạn cuối không chỉ bởi các đáp ứng cảm xúc của họ mà còn bởi một cảm nhận về bổn phận đạo đức.

Các vấn đề văn hóa của giai đoạn cuối đời

Các nghiên cứu đã chỉ ra các khác biệt trong sự hiếu biết và tín ngưỡng đối với các định hướng tiến bộ, làm đại thể, dâng hiến phủ tạng, chăm sóc dưỡng đường.

Các nhiệm vụ sau khi bệnh nhân tử vong

Sự chăm sóc thực sự người bệnh ở giai đoạn cuối còn bao gồm cả theo dõi các thành viên còn sống trong gia đình người bệnh sau khi người bệnh qua đời.

Vai trò của bác sỹ trong giai đoạn cuối đời

Người bệnh đang chết cần các bác sỹ của họ để cho họ thấy sự hiện diện của chính mình, không nhất thiết để có khả năng giải quyết tất cả các vấn đề.

Các vấn đề tâm lý xã hội và tinh thần giai đoạn cuối đời

Điều này có thể bao gồm cả việc hoàn tất công việc quan trọng hoặc các dự án cá nhân, phân chia tài sản viết di chúc, và bố trí việc tang lễ và chôn cất.

Những mong đợi trong giai đoạn cuối đời

Tuy nhiên, với các tiến bộ công nghệ gần đây phục vụ việc giải quyết các vấn đề của giai đoạn cuối cuộc đời thì cái chết đã trở nên được y học hóa.

Xử lý triệu chứng giai đoạn cuối đời

Đau là một vấn đề hay gặp ở người bệnh giai đoạn cuối, có tới 75 phần trăm bệnh nhân chết vì ung thư phải trải qua sự đau đớn và là điều mà nhiều người nói là họ sợ nhất về cái chết.

Chăm sóc gia đình bệnh nhân giai đoạn cuối đời

Tìm một người có tiếng nói trong gia đình, điểu khiển các cuộc họp gia đình sẽ cho phép tất cả cùng được nghe và dành thời gian để nhất trí có thể giúp bác sỹ làm việc hiệu quả với gia đình.

Chẩn đoán giai đoạn cuối đời

Trong khi một số bệnh, chẳng hạn như ung thư, tuân theo các dự đoán tiên lượng về diễn biến của bệnh và dự báo thời gian tử vong, thì các nguyên nhân tử vong.

Ngừng sự trợ giúp cho giai đoạn cuối đời

Việc ngừng các cạn thiệp kéo dài sự sống chẳng hạn như thông khí cơ học phải được tiếp cận cẩn thận để tránh sự đaụ đớn không cần thiết cho người bệnh.

Các chỉ dẫn không cố gắng hồi sức giai đoạn cuối đời

CPR có thể dẫn đến gãy xương sườn và ở đây có một khả năng cao là phải cần can thiệp tích cực khác, chẳng hạn như chăm sóc ở đơn vị hồi sức cấp cứu nếu CPR thành công.