- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư
- Đánh giá đáp ứng điều trị của khối u ung thư
Đánh giá đáp ứng điều trị của khối u ung thư
Chụp cộng hưởng từ hiện nay là phương pháp không xâm nhập tốt nhất để đánh giá các u hố sau của não, u tủy sống, chèn ép tủy sống, các bệnh lý chậu hông.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Hoá trị liệu làm cải thiện được bệnh cảnh lâm sàng, và cũng gây độc. Vì vậy điều tối cần thiết là cần đánh giá khách quan hiệu quả điều trị trên ung thư tiến triển để thấy được tác dụng đến mức nào. Các dấu hiệu có giá trị nhất để theo dõi được kể ra sau đây:
Kích thước khối u
Sự co nhỏ lại của khối u được chứng minh qua khám thực thể, chụp X quang phổi hoặc qua siêu âm, hoặc qua chụp cắt lớp huỳnh quang nhân tế bào như cắt lốp xương (ung thư vú, phổi, tiền liệt tuyến). Chụp CT rất quan trọng để đánh giá chính xác kích thước khối u, vị trí và mức xâm lấn ra xa theo các chiều không gian của khối u.
Chụp cộng hưởng từ hiện nay là phương pháp không xâm nhập tốt nhất để đánh giá các u hố sau của não, u tủy sống, chèn ép tủy sống, các bệnh lý chậu hông, nhưng chụp cắt lớp CT cũng hiệu dụng và có thể có các thông tin bổ sung. Siêu âm cũng rất tiện dụng để đánh giá các ung thư chậu hông. Đáp ứng một phần (PR) được định nghĩa làm giảm 50% khối u nguyên phát. Đáp ứng hoàn toàn (CR) là hiện tượng tiêu tan hoàn toàn khối u do điều trị. Tiến triển là khi tăng khối u lên 25% hoặc xuất hiện các tổn thương mới. Khi xếp loại đáp ứng cần nắm chắc tiêu chuẩn chính xác trên.
Các chất chỉ điểm khối u
Thấy giảm mạnh số lượng các sản phẩm của khối u hoặc các chất chỉ điểm là phản ảnh khối lượng u trong cơ thể giảm đi. Lấy vô số ví dụ về các chất chỉ điểm u như vậy gồm những phần tử paraprotein (globulin miễn dịch bất thường) trong bệnh đa u tủy và bệnh globulin phân tử lớn trong máu, HCG trong ung thư biểu mô rau và ung thư tinh hoàn, phọsphatase acid tiền liệt tuyến, kháng nguyên đặc hiệu tiền liệt tuyến (PSA) trong ung thư tiền liệt tuyến, steroid nước tiểu trong ung thư biểu mô tuyến thượng thận và hội chứng cận ung thư Cushing và hội chứng carcirnoid 5HIAA.
Các kháng nguyên phôi bài tiết bởi khối u cũng hay gặp. αFP trong ung thư tế bào gan, trong ung thư biểu mô phôi quái, và đôi khi cả ung thư dạ dày. Kháng nguyên khối u buồng trứng (CA 125) trong ung thư buồng trứng, kháng nguyên ung thư biểu mô phôi (CEA) trong ung thư đại tràng, phổi và tuỵ. Một kháng nguyên phôi mới được mô tả là CA15:3 rất cố ý nghĩa trong phát hiện sớm ung thư vú tái phát. Các kháng thể đơn clon hiện nay dùng để đo số lượng các chất chỉ điểm u và đã mang lại tiềm năng dùng chất chỉ điểm khối u cho mục đích chẩn đoán.
Chất chủ điểm u có thể đóng vai trò quan trọng trong phát hiện sốm một số ung thư hay gặp khi được phối hợp với các thăm khám thực thể kỹ lưỡng. PSA là một glucoprotein nguồn gốc miễn dịch được sinh ra chỉ ở tiền liệt tuyến, hiện nay là chất chỉ điểm u duy nhất được dùng rộng rãi để sàng lọc loại ung thư này. Mặc dù PSA đầu tiên chỉ được dùng để xem tiến triển của bệnh,nhưng hiện nay được chứng minh là một công cụ sàng lọc có hiệu quả. Khi đối chiếu với động tác thăm trực tràng bằng ngón tay. Chương trình phát hiện ung thư tuyến tiền liệt của Hội ung thư Hoa Kỳ là một nghiên cứu đa trung tâm để đánh giá việc dùng PSA, thăm trực tràng, và siêu âm qua trực tràng để theo dõi hàng loạt nam giới khoẻ mạnh. Nhiều nghiên cứu cho thấy, phối hợp PSA đơn clon trên 4ng/ml hoặc thăm trực tràng bằng ngón tay thấy bất thường đều cho thấy việc phát hiện ung thư tiền tuyến với một tỷ số chi phí hiệu quả tốt.
Sàng lọc hàng năm được khuyến cáo cho đàn ông vào 40 tuổi ở trong gia đình có ung thư tuyến tiền liệt và cho đàn ông 50 tuổi ở những gia đình bình thường. Tuy nhiên điều này cũng còn đang bàn cãi. Chưa chứng minh được việc sàng lọc đều đặn ung thư tiền liệt tuyến dùng khối lượng PSA và thăm trực tràng ngón tay có làm giảm được tỷ lệ chết do ung thư và cải thiện được chất lượng sống hay không. Các thử nghiệm lâm sàng nghiên cứu đang được tiến hành để trả lời câu hỏi này.
Khi PSA tăng cao và khám trực tràng bất thường cần phải làm siêu âm qua trực tràng và cố gắng sinh thiết. Xu thế tăng cường sàng lọc ung thư tuyến tiền liệt trong những năm gần đây đã làm tăng rõ rệt tỷ lệ phát hiện ra bệnh này, mặc dù tỷ lệ mắc bệnh thực sự có lẽ chưa thay đổi. Tỷ lệ mắc ước tính năm 1989 là 109, và năm 1990 là 129. PSA cũng tăng cao giả trong u xơ và viêm tuyến tiền liệt. Nồng độ PSA trong bệnh lành tính là 4 - 10ng/ml; nếu PSA tăng trên 10 thì cần đi tìm ung thư. Ngoài ra có 25 - 45% các bệnh nhân ung thư tiền liệt tuyến còn khu trú có giá trị PSA bình thường. Không may là các chì điểm u khác không đặc hiệu và không nhạy đủ để dùng làm công cụ sàng lọc do hiện tượng tăng cao trong u lành và không tăng trong u ác.
Thể trạng chung
Tình trạng chức năng của bệnh nhân ung thư lúc chẩn đoán (hoặc lúc bắt đầu điều trị ) là một yếu tố tiên lượng quan trọng và là yếu tố quyết định xem có điều trị tác động vào ung thư hay không. Do đó cần thiết cần phải đánh giá tình trạng chức năng cũng như gánh nặng khối u và các triệu chứng trước khi quyết định có thể điều trị ung thư hay không. Chỉ số chức năng đánh giá khả năng của bệnh nhân thực hiện các hoạt động sống hàng ngày và rõ ràng sẽ liên quan tới gánh nặng khối u, vị trí u, và tình trạng thể lực của bệnh nhân.
Có hai thang chỉ số thường dùng để đo tình trạng chức năng toàn thân. Chỉ số Karnofsky từ 100% ( chức năng hoàn hảo, không có triệu chứng gì) tới 0% (chết) theo bậc 10% ví dụ chỉ số Karnofsky 40% có nghĩa là bệnh nhân không dậy được và đòi hỏi phải săn sóc hỗ trợ đặc biệt. Bệnh nhân này không thể làm được việc mà chỉ sống được ở nhà với sự hỗ trợ đặc biệt. Thang chỉ số của nhóm hợp tác của ung thư phương Tây (ECOG) là hệ thống 5 điểm. Nó đơn giản hơn và dễ ứng dụng vào thực tiễn lâm sàng hơn. Hệ thống cho điểm ECOG theo thang 0 - 4 như sau: 0 là hoàn toàn không có triệu chứng gì; 1 là có triệu chứng nhưng vẫn đi lại được dễ dàng; 2 là có triệu chứng và nằm giường < 50% thời gian trong ngày; 3 là có triệu chứng và nằm giường > 50% thời gian nhưng không liệt gưòng, và 4 là liệt giường. Hai hệ thống chỉ số này là cơ sở để quyết định chọn lựa điều trị trong nhiều trường hợp mặc dù chưa thật chính xác lắm. Hệ thông chỉ số đó cũng có ích để đánh giá ảnh hưởng của điều trị và tiến triển của bệnh trên bệnh nhân.
Các biện pháp đánh giá tình trạng chức năng được mô tả ở trên sẽ không thích hợp để đánh giá chất lượng sống, một mục tiêu quan trọng của hóa trị liệu ung thư. Chỉ số chức năng cơ thể chỉ là một thành phần của chất lượng sống, mà nó là những phối hợp của những yếu tố khách quan và chủ quan và trong một số trường hợp có một phần hiệu ứng placebo. Các yếu tố trong đánh giá chức phận chung còn gồm sự ngon miệng, lên cân và hết đau cũng như cải thiện được tình trạng toàn thân chung. Các nghiên cứu mới đây gợi ý rằng nhìn chung các bệnh nhân ung thư quan niệm rằng họ không nhận được thuốc chống đau thích hợp, và bị tổn hại chức năng do đau đớn. Việc sử dụng các thuốc hợp lý các thuốc giảm đau bị hạn chế bởi các tác dụng phụ. Những phác đồ mới để điều trị đau và cho thuốc phiện kéo dài qua đường đặt dưới da có hiệu quả. Chỉ có đánh giá đầy đủ các yếu tố mô tả ở trên các thầy thuốc mới có thể đánh giá được hiệu quả thực sự của điều trị bằng hóa chất. Hơn nữa đánh giá kỹ lưỡng sẽ xác định bệnh nhân ung thư nào là xứng đáng để phục hồi tích cực.
Bài viết cùng chuyên mục
Các hội chứng cận ung thư: chẩn đoán và điều trị
Hội chứng cận ung thư thường được cho là do tác động chuyển hóa hoặc nội tiết lạ không liên quan đến tổ chức ung thư, các dấu hiệu lâm sàng có thể giống với các rối loạn nội tiết.
Hóa trị liệu bổ trợ cho các vi di căn ung thư nguyên phát
Điều trị bổ sung còn đang được nghiên cứu và chưa được chứng minh trong các ung thư hay mắc khác như ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư tuỵ.
Tỷ lệ mắc bệnh và nguyên nhân ung thư
Phần lớn các bệnh ung thư ở người lớn được cho là do sự kết hợp của các nhân tố liên quan đến lối sống và do tiếp xúc với môi trường. Các vấn đề về lối sống sẽ được đề cập ở phàn phòng bệnh cấp một.
Phòng bệnh ung thư cấp một
Hoá chất phòng bệnh là một lĩnh vực mới đầy hấp dẫn trong nghiên cứu ung thư, tập trung vào phòng bệnh ung thư bằng sử dụng các chất hoá học can thiệp vào nhiều giai đoạn phát sinh ung thư.
Xếp giai đoạn bệnh ung thư
Phương pháp để tiến hành sắp xếp giai đoạn như bằng khám lâm sàng hay làm giải phẫu bệnh bệnh phẩm lấy được phải được tiến hành cẩn thận.
Một số biến chứng trong ung thư
Tràn dịch tái phát có thể điều trị bằng dẫn lưu và gây dính. Tiêm hóa chất hoặc một thuốc gây dính vào khoang tràn dịch kèm lidocain để đỡ đau.
Phòng bệnh ung thư cấp hai: phát hiện sớm ung thư
Đối với hầu hết các bệnh ung thư, giai đoạn lúc phát hiện bệnh có liên quan đến khả năng chữa bệnh, tỉ lệ chữa khỏi bệnh cao nhất khi khối u còn nhỏ và không có dấu hiệu di căn.
Cấp cứu biến chứng tăng Calci máu trong ung thư
Triệu chứng của tăng calci máu gồm nôn, buồn nôn, táo bón, đái nhiều, nhược cơ, giảm phản xạ, lẫn lộn, trầm cảm, run rẩy, một số bệnh nhân không có triệu chứng.
Độc tính và thay đổi liều thuốc hóa chất điều trị ung thư
Giảm tiểu cầu cũng là vấn đề khi điều trị hóa chất kéo dài liều cao, và có thể làm hạn chế điều trị, Một số thuốc hiện nay đang nghiên cứu có thể giải quyết vấn đề này.
Điều trị ung thư nguyên phát bằng phẫu thuật và tia xạ
Hiện nay phẫu thuật có hiệu quả cả về chẩn đoán và điều trị, vì nó cho phép đánh giá giai đoạn mô bệnh học của sự phát triển và xâm lấn tại chỗ cũng như khả năng loại bỏ khối u nguyên phát.
Cấp cứu hội chứng Carcinoid ác tính
Các thuốc chống sinh tổng hợp peptide như acetate octreotide là có hiệu quả nhất làm giảm các triệu chứng do hội chứng carcinoid, đồng thời làm giảm đáng kể mức 5HIAA trong nước tiểu.
Cấp cứu tăng acid uric máu và bệnh thận urate cấp trong ung thư
Tăng acid uric cấp, xuất hiện như là một biến chứng của quá trình tăng sinh ác tính nhanh chóng, hoặc do điều trị làm tan u mạnh trong các ung thư máu.
Cấp cứu biến chứng chèn ép tủy sống trong ung thư
Các thương tổn thần kinh lúc chẩn đoán đa phần là không hồi phục, mặc dù điều trị sớm các triệu chứng thần kinh có thể đạt được hồi phục dần.