- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư
- Cấp cứu tăng acid uric máu và bệnh thận urate cấp trong ung thư
Cấp cứu tăng acid uric máu và bệnh thận urate cấp trong ung thư
Tăng acid uric cấp, xuất hiện như là một biến chứng của quá trình tăng sinh ác tính nhanh chóng, hoặc do điều trị làm tan u mạnh trong các ung thư máu.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Ung thư là một bệnh mạn tính, nhưng các tình huống cấp cứu có thể xuất hiện như là một biến chứng của xâm lấn tại chỗ (chèn ép tủy, hội chứng tĩnh mạch chủ trên, tràn dịch ác tính v.v) hoặc được sinh ra do các tác động toàn thân (tăng calci máu, nhiễm trùng cơ hội, tăng đông máu, tăng urê máu v.v). Những biến chứng này có thể là biểu hiện của ung thư và cần thiết phải ghi nhận và tìm hiểu kỹ lưỡng.
Nhận định chung
Tăng acid uric cấp xuất hiện như là một biến chứng của quá trình tăng sinh ác tính nhanh chóng, hoặc do điều trị làm tan u mạnh trong các ung thư máu như bệnh bạch cầu, u lympho, đa u tủy. Các u ác có chuyển hóa acid nhân cao như bệnh bạch cầu cấp, u lympho có thể biểu hiện tăng acid uric máu và phối hợp với suy thận. Vấn đề này có thể do sử dụng sintamid lợi niệu, làm giảm sự bài tiết urate. Khi bệnh nhân có tăng acid uric máu, phải săn sóc điều trị làm giảm acid uric tối đa trước khi điều trị ung thư. Các bệnh nhân có hội chứng liền khối u cần phải được theo dõi cẩn thận. Thử acid uric phosphate, calci, creatinin 2 lần 1 ngày trong 2 - 3 ngày đầu điều trị hóa chất. Nếu thấy acid, uric trong máu tăng lên nhanh chóng, là có biểu hiện nguy cơ suy thận urade cấp gây ra do các tinh thể acid uric ở ống xa, gốc góp và nhu mô thận. Nồng độ urat huyết thanh trên 15ng/l là có nguy cơ cao phát triển bệnh thận acid uric. Viêm khớp dạng gút cũng thường là vấn đề khi bệnh nhân có tiền sử bệnh gút.
Điều trị phòng ngừa bao gồm: giảm nguồn uric và tăng bài tiết uric ở thận. Ạllopurinol là một thuốc ức chế cạnh tranh xanthin oxydase và ngăn ngừa xanthin và hypoxanthin. Tan mạch chuyển thành acid uric không hoà tan. 12 - 24 giờ trước khi điều trị dùng liều 600mg, sau đó dùng 300mg/ngày vào thời điểm có nguy cơ cao. Liều cao hơn (tới 900 - 1200mg/ngày) được dùng khi tăng cao acid uric máu do điều trị hóa chất các bệnh nhân dùng hóa chất chống purin như mercaptopurin hoặc azathioprine. Chỉ nên cho 25 - 35% liều hóa chất tính toán nếu họ được dùng allopurinol. Lý do là thuốc này cũng có hiệu quả điều trị và cũng gây độc. Quá trình bài tiết acid uric được tăng cường bằng cách duy trì lợi niệu, và làm kiềm hóa nước tiểu để ngăn ngừa đóng kết tinh thể acid uric. Thuốc lợi tiểu kiềm để duy trì pH nước gần 7,0 được dùng để phòng ngừa khi bệnh nhân có đáp ứng khối u nhanh chóng với tăng uric trong máu cao.
Điều trị cấp cứu
Điều trị cấp nếu tình trạng tăng acid uric máu gồm: 1) bù nưốc 2 - 4 lít dịch một ngày; 2) Kiềm hóa nước tiểu bằng 6 - 8g bicarbonate natri một ngày; 3) allopurinol 900 - 1200mg/ngày; và 4) trong các trường hợp nặng lọc máu cấp cứu. Khi có tăng uric máu cao, điều trị như trên không thích hợp do suy thận và lượng nước tiểu thấp. Dùng Allopurinol đường tĩnh mạch gần đây thấy tốt hơn khi bệnh nhân không chịu được đường uống.
Bệnh nhân có tăng uric máu thường đang có đáp ứng với hóa chất và có tiên lượng tốt. Do đó cần chỉ định điều trị ngăn ngừa tích cực để tránh độc thận. Thậm chí nếu xuất hiện suy thận thì cần lọc máu, chức năng thận có thể trở về bình thường sau đợt tiêu khối u kịch phát chấm dứt.
Bài viết cùng chuyên mục
Đánh giá đáp ứng điều trị của khối u ung thư
Chụp cộng hưởng từ hiện nay là phương pháp không xâm nhập tốt nhất để đánh giá các u hố sau của não, u tủy sống, chèn ép tủy sống, các bệnh lý chậu hông.
Phòng bệnh ung thư cấp hai: phát hiện sớm ung thư
Đối với hầu hết các bệnh ung thư, giai đoạn lúc phát hiện bệnh có liên quan đến khả năng chữa bệnh, tỉ lệ chữa khỏi bệnh cao nhất khi khối u còn nhỏ và không có dấu hiệu di căn.
Phòng bệnh ung thư cấp một
Hoá chất phòng bệnh là một lĩnh vực mới đầy hấp dẫn trong nghiên cứu ung thư, tập trung vào phòng bệnh ung thư bằng sử dụng các chất hoá học can thiệp vào nhiều giai đoạn phát sinh ung thư.
Các hội chứng cận ung thư: chẩn đoán và điều trị
Hội chứng cận ung thư thường được cho là do tác động chuyển hóa hoặc nội tiết lạ không liên quan đến tổ chức ung thư, các dấu hiệu lâm sàng có thể giống với các rối loạn nội tiết.
Cấp cứu hội chứng Carcinoid ác tính
Các thuốc chống sinh tổng hợp peptide như acetate octreotide là có hiệu quả nhất làm giảm các triệu chứng do hội chứng carcinoid, đồng thời làm giảm đáng kể mức 5HIAA trong nước tiểu.
Tỷ lệ mắc bệnh và nguyên nhân ung thư
Phần lớn các bệnh ung thư ở người lớn được cho là do sự kết hợp của các nhân tố liên quan đến lối sống và do tiếp xúc với môi trường. Các vấn đề về lối sống sẽ được đề cập ở phàn phòng bệnh cấp một.
Cấp cứu biến chứng tăng Calci máu trong ung thư
Triệu chứng của tăng calci máu gồm nôn, buồn nôn, táo bón, đái nhiều, nhược cơ, giảm phản xạ, lẫn lộn, trầm cảm, run rẩy, một số bệnh nhân không có triệu chứng.
Điều trị ung thư nguyên phát bằng phẫu thuật và tia xạ
Hiện nay phẫu thuật có hiệu quả cả về chẩn đoán và điều trị, vì nó cho phép đánh giá giai đoạn mô bệnh học của sự phát triển và xâm lấn tại chỗ cũng như khả năng loại bỏ khối u nguyên phát.
Xếp giai đoạn bệnh ung thư
Phương pháp để tiến hành sắp xếp giai đoạn như bằng khám lâm sàng hay làm giải phẫu bệnh bệnh phẩm lấy được phải được tiến hành cẩn thận.
Cấp cứu biến chứng chèn ép tủy sống trong ung thư
Các thương tổn thần kinh lúc chẩn đoán đa phần là không hồi phục, mặc dù điều trị sớm các triệu chứng thần kinh có thể đạt được hồi phục dần.
Một số biến chứng trong ung thư
Tràn dịch tái phát có thể điều trị bằng dẫn lưu và gây dính. Tiêm hóa chất hoặc một thuốc gây dính vào khoang tràn dịch kèm lidocain để đỡ đau.
Độc tính và thay đổi liều thuốc hóa chất điều trị ung thư
Giảm tiểu cầu cũng là vấn đề khi điều trị hóa chất kéo dài liều cao, và có thể làm hạn chế điều trị, Một số thuốc hiện nay đang nghiên cứu có thể giải quyết vấn đề này.
Hóa trị liệu bổ trợ cho các vi di căn ung thư nguyên phát
Điều trị bổ sung còn đang được nghiên cứu và chưa được chứng minh trong các ung thư hay mắc khác như ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư tuỵ.