- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư
- Cấp cứu biến chứng chèn ép tủy sống trong ung thư
Cấp cứu biến chứng chèn ép tủy sống trong ung thư
Các thương tổn thần kinh lúc chẩn đoán đa phần là không hồi phục, mặc dù điều trị sớm các triệu chứng thần kinh có thể đạt được hồi phục dần.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Nhận định chung
Ung thư là một bệnh mạn tính, nhưng các tình huống cấp cứu có thể xuất hiện như là một biến chứng của xâm lấn tại chỗ (chèn ép tủy, hội chứng tĩnh mạch chủ trên, tràn dịch ác tính v.v) hoặc được sinh ra do các tác động toàn thân (tăng calci máu, nhiễm trùng cơ hội, tăng đông máu, tăng urê máu v.v). Những biến chứng này có thể là biểu hiện của ung thư và cần thiết phải ghi nhận và tìm hiểu kỹ lưỡng.
Chèn ép tủy sống bởi u được thể hiện bằng đau lưng, mệt mỏi tăng dần, và mất cảm giác (thông thường ở chi dưới). Hiếm gặp hơn, bệnh ở tủy sống biểu hiện là đau ngực và đau bụng hoặc có dấu hiệu chèn ép thần kinh do u ở màng cứng. Rối loạn chức năng bàng quang và ruột là những dấu hiệu muộn. Chèn ép tủy sống khó thở xuất hiện như biến chứng của u đặc di căn, của u lympho, của bệnh đa u tủy. Đau lưng do tổn thương cột sống xuát hiện trong 80% các trường hợp có thể tăng khi nằm xuống, mang nặng, hắt hơi, hoặc ho vì đau lưng có trước các dấu hiệu thần kinh, nên cần thăm dò kỹ lưỡng trong các bệnh nhân ung thư.
Chẩn đoán nhanh chóng và điều trị sớm thương tổn chèn ép tủy là quan trọng. Các thương tổn thần kinh lúc chẩn đoán đa phần là không hồi phục, mặc dù điều trị sớm các triệu chứng thần kinh có thể đạt được hồi phục dần. Thương tổn thần kinh thường tiến triển về ban đêm, bệnh nhân cần được theo dõi cẩn thận. Điều trị các thương tổn còn sớm có thể tránh được mặc cảm tai hại. Các bệnh nhân liệt có thể không phục hồi về chức năng, nhưng có thể đỡ đau và hạn chế được tiến triển đau đớn sau này. Hơn nữa, bệnh nhân có thể đáp ứng với điều trị toàn thân tùy thuộc vào bản chất của ung thư.
Chẩn đoán chèn ểp tủy sống theo truyền thống được tiến hành bằng chụp cắt lớp CT và chụp tủy. Chụp cộng hưởng từ MRI hiện nay là một phương pháp nhạy cảm thay thế cho chụp tủy. Có thể thấy rõ chi tiết vùng nghi ngờ cũng như hình ảnh bên của toàn bộ tủy sống cũng như ống sống. Xét nghiệm này rất có ý nghĩa để phát hiện và điều trị bệnh đa u tủy. Chụp X quang xương và chụp cắt lớp xương cũng có ích để phát hiện di căn cột sống nhưng không giúp đánh giá được di căn tủy sống.
Điều trị cấp cứu
Điều trị tia phóng xạ vào vùng chèn ép tủy sống và hai đốt sống trên và dưới tổn thương là điều trị chọn lựa. Dùng liều cao glucocorticoid (thường là Dexamethason, 10 - 100mg tiêm tĩnh mạch) là cơ sở cấp cứu ngay khi chẩn đoán được nghi ngờ hoặc được khẳng định. Dùng liều thấp (4 - 6 mg 6 giờ 1 lần tiêm tĩnh mạch hoặc uống) được duy trì trong quá trình điều trị tia phóng xạ và cho tới khi kết thúc điều trị.
Phẫu thuật cấp cứu được chỉ định cho chèn ép tủy khi (1) không phải u ác tính, có thể (2) cho các bệnh nhân đã được chiếu tia tối đa vào vùng tủy sống bị ung thư, và (3) cho bệnh nhân phát triển các liệt thần kinh dần dần trong quá trình tia xạ. Điều trị hóa chất có ích khi bị u lympho, đa u tủy phối hợp cùng hoặc sau khi hoàn thành xạ trị.
Bài viết cùng chuyên mục
Tỷ lệ mắc bệnh và nguyên nhân ung thư
Phần lớn các bệnh ung thư ở người lớn được cho là do sự kết hợp của các nhân tố liên quan đến lối sống và do tiếp xúc với môi trường. Các vấn đề về lối sống sẽ được đề cập ở phàn phòng bệnh cấp một.
Cấp cứu tăng acid uric máu và bệnh thận urate cấp trong ung thư
Tăng acid uric cấp, xuất hiện như là một biến chứng của quá trình tăng sinh ác tính nhanh chóng, hoặc do điều trị làm tan u mạnh trong các ung thư máu.
Một số biến chứng trong ung thư
Tràn dịch tái phát có thể điều trị bằng dẫn lưu và gây dính. Tiêm hóa chất hoặc một thuốc gây dính vào khoang tràn dịch kèm lidocain để đỡ đau.
Các hội chứng cận ung thư: chẩn đoán và điều trị
Hội chứng cận ung thư thường được cho là do tác động chuyển hóa hoặc nội tiết lạ không liên quan đến tổ chức ung thư, các dấu hiệu lâm sàng có thể giống với các rối loạn nội tiết.
Phòng bệnh ung thư cấp hai: phát hiện sớm ung thư
Đối với hầu hết các bệnh ung thư, giai đoạn lúc phát hiện bệnh có liên quan đến khả năng chữa bệnh, tỉ lệ chữa khỏi bệnh cao nhất khi khối u còn nhỏ và không có dấu hiệu di căn.
Phòng bệnh ung thư cấp một
Hoá chất phòng bệnh là một lĩnh vực mới đầy hấp dẫn trong nghiên cứu ung thư, tập trung vào phòng bệnh ung thư bằng sử dụng các chất hoá học can thiệp vào nhiều giai đoạn phát sinh ung thư.
Điều trị ung thư nguyên phát bằng phẫu thuật và tia xạ
Hiện nay phẫu thuật có hiệu quả cả về chẩn đoán và điều trị, vì nó cho phép đánh giá giai đoạn mô bệnh học của sự phát triển và xâm lấn tại chỗ cũng như khả năng loại bỏ khối u nguyên phát.
Độc tính và thay đổi liều thuốc hóa chất điều trị ung thư
Giảm tiểu cầu cũng là vấn đề khi điều trị hóa chất kéo dài liều cao, và có thể làm hạn chế điều trị, Một số thuốc hiện nay đang nghiên cứu có thể giải quyết vấn đề này.
Hóa trị liệu bổ trợ cho các vi di căn ung thư nguyên phát
Điều trị bổ sung còn đang được nghiên cứu và chưa được chứng minh trong các ung thư hay mắc khác như ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư tuỵ.
Cấp cứu hội chứng Carcinoid ác tính
Các thuốc chống sinh tổng hợp peptide như acetate octreotide là có hiệu quả nhất làm giảm các triệu chứng do hội chứng carcinoid, đồng thời làm giảm đáng kể mức 5HIAA trong nước tiểu.
Xếp giai đoạn bệnh ung thư
Phương pháp để tiến hành sắp xếp giai đoạn như bằng khám lâm sàng hay làm giải phẫu bệnh bệnh phẩm lấy được phải được tiến hành cẩn thận.
Đánh giá đáp ứng điều trị của khối u ung thư
Chụp cộng hưởng từ hiện nay là phương pháp không xâm nhập tốt nhất để đánh giá các u hố sau của não, u tủy sống, chèn ép tủy sống, các bệnh lý chậu hông.
Cấp cứu biến chứng tăng Calci máu trong ung thư
Triệu chứng của tăng calci máu gồm nôn, buồn nôn, táo bón, đái nhiều, nhược cơ, giảm phản xạ, lẫn lộn, trầm cảm, run rẩy, một số bệnh nhân không có triệu chứng.