Viêm màng não do não mô cầu

2016-03-22 07:39 PM

Sốt cao, rét run, đau đầu, đau lưng, đau bụng, đau đầu chi, buồn nôn và nôn đều có thể gặp. Khi bệnh nặng, bệnh nhân nhanh chóng bị lú lẫn, hoảng loạn, co giật và hôn mê.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán

Sốt, đau đầu, nôn, co giật, hoảng loạn, lú lẫn.

Ban xuất huyết dạng chấm trên da và niêm mạc gặp trong nhiều trường hợp.

Cổ cứng, lưng cứng với các dấu hiệu Kernig và Brudzinski là rất đặc trưng cho bệnh.

Dịch não tủy đục và xét nghiệm soi có song cầu gram (-) trong tế bào và cả ngoài tế bào.

Cấy phân lập được não mô cầu trong dịch não tủy, máu và dịch hút từ ban xuất huyết.

Nhận định chung

Viêm màng não não mô cầu là do các vi khuẩn Neisseria meningitidis thuộc các nhóm A, B, C, Y, W - 135 và các nhóm khác gây ra. Bệnh do nhóm A ít gặp ở Mỹ. Nhóm B thường gây bệnh rải rác. Tần suất các vụ dịch do nhóm C gây ra ngày càng tăng trong những năm gần đây tại Mỹ. Có đến 40% người lớn mang não mô cầu trong khoang mũi họng, nhưng chỉ có một số ít người trở nên bị bệnh. Bệnh được truyền qua các hạt nước bọt. Biểu hiện lâm sàng có thể dưới dạng nhiễm khuẩn huyết não mô cầu (là một thể chớp nhoáng của nhiễm khuẩn máu mà không có viêm màng não), hoặc nhiễm khuẩn huyết và viêm màng não do não mô cầu hoặc viêm màng não mủ là chủ yếu. Ngoài ra, còn có thể gặp nhiễm khuẩn huyết não mô cầu mạn tính tái phát với sốt, nổi ban và viêm khớp, nhất là ở những người bị thiếu hụt các kháng thể cuối (từ C7 đến C9).

Các triệu chứng và dấu hiệu

Sốt cao, rét run, đau đầu, đau lưng, đau bụng, đau đầu chi, buồn nôn và nôn đều có thể gặp. Khi bệnh nặng, bệnh nhân nhanh chóng bị lú lẫn, hoảng loạn, co giật và hôn mê. Khám thực thể thấy cứng gáy, cứng cổ điển hình với dấu hiệu Kernig (đau khoeo làm chân co lại khi nâng thẳng 2 chân lên một góc 90° so với thân) và dấu hiệu Brudzinski (đầu gối co lại khi nâng cổ cao lên khỏi mặt giường). Các ban xuất huyết thường xuất hiện trước tiên ở chi dưới và các điểm tỳ đè, gặp trong hầu hết mọi trường hợp. Xuất huyết có thể có dạng thay đổi, từ kích thước bằng đầu kim, đến mảng xuất huyết lớn, thậm chí từng vùng xuất huyết hoại tử da làm bong da, bì tổ chức dưới sâu nếu bệnh nhân sống sót qua giai đoạn nguy kịch.

Các biểu hiện cận lâm sàng

Chọc dò thắt lưng sẽ cho kết quả điển hình gồm dịch não tủy ám khói hoặc đục như mủ, có áp lực tăng, protein tăng và đường hạ, đa số có > 1000 tế bào /mm3, trong đó đại đa số là bạch cầu hạt trung tính, và có cả vi khuẩn kiểu song cầu gram (-) nằm trong tế bào. Tuy nhiên, nếu không thấy vi khuẩn song cầu gram (-) trên tiêu bản nhuộm cặn dịch não tủy thì cũng không loại trừ được bệnh. Dùng xét nghiệm lắng đọng latex có thể phát hiện được kháng nguyên vỏ polysaccharid của vi khuẩn này trong dịch não tủy hoặc trong nước tiểu. Xét nghiệm này đặc biệt hữu ích khi đã điều trị dở dang, dù độ nhậy chỉ ở mức 60 - 80%. Não mô cầu thường thấy được khi nhuộm dịch hút từ ban xuất huyết, dịch ngoáy mũi họng, dịch não tủy hoặc cấy máu.

Đông máu nội mạch lan toả là một biến chứng nguy hiểm của bệnh này. Thời gian prothrombin (PT) và thời gian thromboplastin bán phần (PTP) kéo dài và tăng chuỗi kép fibrin trong máu trong khi fibrinogen lại thấp và tiểu cầu giảm.

Chẩn đoán phân biệt

Cần chẩn đoán phân biệt viêm màng não do não mô cầu với các bệnh viêm màng não do virus và do các vi khuẩn khác. Trẻ nhỏ và người già có thể bị bệnh mà triệu chứng không điển hình, không sốt, không cứng cổ.

Nhiễm echovirus, rickettsia và các vi khuẩn khác (tụ cầu, sốt tinh hồng nhiệt) đôi khi cũng có một số ban xuất huyết.

Phòng bệnh

Các vaccin polysaccharid có hiệu lực chống các vi khuẩn nhóm A, C, Y, W - 135 đã có sẵn trên thị trường. Nhờ có vaccin chống nhóm A và C mà các vụ dịch viêm màng não ở tân binh đã giảm đi nhiều. Các vaccin này cũng có hiệu quả khống chế được dịch trong nhân dân.

Các vụ dịch trong các quần thể lân cận nhau thường được khống chế bằng cách loại bỏ tinh trạng người lành mang vi khuẩn não mô cầu trong khoang mũi - họng. Thường người ta dùng rifampin, liều 600mg, ngày 2 lần, trong 2 ngày cho người lớn, và 100mg/kg, ngày 2 lần trong 2 ngày cho trẻ 1 tháng đến 12 tuổi; 5mg/kg, ngày 2 lần, trong 2 ngày cho trẻ sơ sinh.

Các thành viên trong gia đình bệnh nhân có nhiều nguy cơ bị bệnh và cần được điều trị dự phòng bằng rifampin như trên. Nhân viên và những người tiếp xúc với bệnh tại phòng khám cũng vậy. Ngược lại, bạn học hay bạn cùng làm việc không cần phải điều trị dự phòng. Nhân viên y tế trong bệnh viện cũng không cần phải điều trị dự phòng khi tiếp xúc thông thường với bệnh nhân, trừ trường hợp tiếp xúc và phơi nhiễm nặng (như hồi sinh miệng - miệng chẳng hạn).

Trường hợp phát hiện tình cờ có não mô cầu trong khoang miệng họng mà không hề tiếp xúc với người bệnh thì cũng không cần uống kháng sinh dự phòng.

Điều trị

Cấy máu cần tiến hành ngay, và dùng ngay kháng sinh đường tĩnh mạch sau cấy máu; có thể là phải dùng kháng sinh trước cả khi chọc sống lưng ở những bệnh nhân mà chẩn đoán chưa rõ ràng và chụp cắt lớp để loại trừ khối choán chỗ. Penicillin G là kháng sinh được dùng (24 triệu đơn vị trong 24 giờ, chia làm 6 lần cách nhau 4 giờ). Nếu bệnh nhân dị ứng với penicillin, hoặc nghi ngờ có viêm màng não do H. influenzae hoặc các vi khuẩn gram (-) khác thì có thể dùng ceftriaxon 4g tiêm tĩnh mạch một lấn mỗi ngày. Chloramphenicol 1g tiêm tĩnh mạch ngày 4 lần là biện pháp thay thế nếu bệnh nhân dị ứng với cả penicillin và cephalosporin.

Cần tiếp tục điều trị theo đường tĩnh mạch cho đến khi bệnh nhân hết sốt 5 ngày. Trước đây khuyến nghị thời gian diều trị là 7 - 10 ngày. Hiện nay thấy có thể rút ngắn hơn, nhất là khi dùng ceftriaxon.

U ám hoặc hư biến tinh thần có thể xẩy ra do phù não và tăng áp lực nội sọ. Nếu bệnh nhân nặng và có dấu hiệu tăng áp lực nội sọ rõ rệt thì có thể xem xét dùng dexamethason 0,6mg/kg chia 4 lẩn trong một ngày duy nhất.

Về mặt lý thuyết việc sử dụng heparin có thể có tác dụng trong trường hợp có đông máu nội mạch lan toả, nhưng trong thực tế, không thấy có tác dụng gì đối với tiên lượng của bệnh.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh phong

Bệnh được phân thành 2 thể theo lâm sàng và mô bệnh học: thể lan tỏa và thể củ. Thể lan toả gặp ở người có suy giảm miễn dịch tế bào.

Tạo miễn dịch khuyến cáo cho những người du lịch

Khi các đối tượng yêu cầu các bác sĩ cho biết thông tin và tiêm vaccin để đi du lịch, toàn bộ lịch tiêm chủng của họ nên được xem xét và cập nhật.

U hạt vùng bẹn

Đó là những cục thâm nhiễm tương đối ít đau và nhanh chóng bong ra, để lại các vết loét nông, bờ rõ rệt, nền là tổ chức hạt mủn, màu đỏ như thịt bò.

Viêm màng não do lao

Ngay cả khi cấy cho kết quả âm tính cũng cần điều trị đủ liệu trình nếu lâm sàng có dấu hiệu gợi ý là viêm màng não.

Nhiễm khuẩn tụ cầu không tiết coagulase

Vì tụ cầu không tiết coagulase là vi khuẩn bình thường trên da người, nên phân lập được nó khó có thể nói đó là nhiễm khuẩn hay nhiễm bẩn khi cấy máu mà tìm thấy có vi khuẩn này.

Vãng khuẩn huyết và nhiễm trùng huyết do vi khuẩn gram âm

Kháng sinh phải được dùng ngay khi có chẩn đoán, vì điều trị chậm sẽ làm tăng tỷ lệ tử vong. Nói chung cần dùng bằng đường tĩnh mạch để đảm bảo được nồng độ cần thiết.

Những hội chứng do virus epstein barr

Các virus herpes có khả năng làm biến đổi tế bào, khi nuôi cấy trong tổ chức và đi kèm với các bệnh ác tính như virus Epstein Barr gây u lympho Burkitt.

Bệnh do rickettsia

Tất cả các rickettsia đều bị ức chế bởi tetracyclin hoặc chloramphenicol. Tất cả các trường hợp nhiễm rickettsia giai đoạn đầu đáp ứng ở một vài mức độ với những thuốc này.

Ngộ độc Clostridium botulinum

Đây là bệnh ngộ độc thức ăn do ăn phải độc tố có sẵn thường do các typ A, B hoặc E của vi khuẩn Clostridium botulinum, đây là một trực khuẩn có nha bào, kỵ khí tuyệt đối, có ở khắp nơi trong đất.

Nhiễm khuẩn da do liên cầu

Đối với những bệnh nhân có dấu hiệu toàn thân nặng hoặc bệnh phân bị viêm tổ chức tế bào da ở mặt, cần dùng kháng sinh đường toàn thân.

Bệnh dịch hạch

Khởi bệnh đột ngột sốt cao, mệt nặng, nhịp tim nhanh, đau đầu và đau cơ dữ dội. Bệnh nhân trong tình trạng nặng, có thể thấy mê sảng.

Viêm niệu đạo và viêm cổ tử cung do Chlamydia

Điều trị thường theo giả định. Bạn tình của bệnh nhân cũng cần được điều trị. Cách điều trị hiệu quả là tetracyclin hoặc erythromycin 500mg uống ngày 4 lần.

Nhiễm tụ cầu khuẩn huyết

Trường hợp bệnh nhân có nguy cơ cao như người tiểu đường, người có suy giảm miễn dịch hoặc nghi ngờ có viêm nội tâm mạc, người ta khuyên nên dùng dài ngày hơn.

Nhiễm Parovirus

Việc chẩn đoán dựa vào lâm sàng, nhưng có thể xác định bằng tăng nồng độ kháng thể kháng parvovirus loại IGM trong huyết thanh. Sốt tinh hồng nhiệt rất giống bệnh do parvovirus.

Ỉa chảy nhiễm khuẩn cấp tính

Điều trị chủ yếu là bù nước và điện giải, trong một vài trường hợp có thể phải điều trị sốc mất nước và hỗ trợ hô hấp. Nói chung, phân lớn các trường hợp ỉa chảy cấp tính đều tự khỏi.

Bệnh Hạ cam

Các biến chứng thường gặp là viêm quy đầu và viêm đầu dương vật. Cần chẩn đoán nốt loét hạ cam với các vết loét bệnh khác, đặc biệt là giang mai.

Nhiễm khuẩn ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch

Những bệnh nhân bị cắt lách hoặc suy giảm chức năng lách không thể loại trừ được vi khuẩn trong dòng máu, dẫn đến tăng nguy cơ vãng khuẩn huyết bởi các vi khuẩn có vỏ.

Sốt do ve Colorado

Cần phải chẩn đoán phân biệt bệnh sốt do ve Colorado với các bệnh: cúm, nhiễm Rickettsia rickettsii, vả những bệnh sốt có giảm bạch cầu cấp tính khác.

Bệnh bại liệt

Suy hô hấp là hậu quả của liệt cơ hô hấp, tắc nghẽn đường hô hấp do tổn thương các nhân của dây thần kinh sọ, hoặc ổ thương trung hô hấp.

Bệnh tả

Điều trị bằng bù dịch khi bệnh nhẹ hoặc vừa thì uống dịch cũng đủ để làm giảm mạnh tỷ lệ tử vong ở các nước đang phát triển. Có thể tự pha lấy dịch.

Bệnh do Brucella

Khởi phát thường đột ngột: sốt, rét run, toát mồ hôi nhưng thông thường chỉ khởi phát âm ỉ. Bệnh nhân đến khám sau nhiều tuần có mệt mỏi, sút cân, sốt nhẹ, ra mồ hôi, mệt nhanh dù làm việc nhẹ.

Bệnh than

Khi bệnh biểu hiện trên da, thường thấy các ban đỏ tại vùng bị thương và nhanh chóng chuyển sang các mụn phỏng màu hồng rồi màu đen ở giữa. Vùng xung quanh phù nề và nổi mụn phỏng.

Test quá mẫn và giải mẫn cảm

Nếu phản ứng ở mức độ nhẹ xẩy ra thì dùng liều thấp hơn và tiếp tục giải mẫn cảm. Nếu phản ứng nặng hơn, cần dùng epinephrin và ngừng thuốc trừ khi việc điều trị là tối cần thiết.

Các bệnh do nấm Actinomyces

Đây là các vi khuẩn dạng sợi phân nhánh gram + kỵ khí, có đường kính khoảng 1µm và có thể phân chia thành dạng trực khuẩn. Khi vào trong các mô của vết thương.

Sốt phát ban thành dịch do bọ chét

Ban ở dạng dát sẩn tập trung ở thân mình và mờ đi tương đối nhanh, ít gặp bệnh nhân tử vong và thường chỉ xảy ra ở người già.