Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương

2016-02-28 11:22 AM

Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương có thể được phân thành vài thể bệnh, thông thường có thể dễ phân biệt các thể bệnh với nhau nhờ xét nghiệm dịch não tủy, đây là bước đầu tiên để chẩn đoán căn nguyên.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương có thể do hầu hết các tác nhân gây bệnh, bao gồm vi khuẩn, mycobacteria, nấm, xoắn khuẩn, đơn bào, kí sinh trùng và virus. Một vài triệu chứng và dấu hiệu hay gặp ở tất cả các nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương là đau đầu, sốt, rối loạn cảm giác, cứng gáy, dấu hiệu Kernig và Bruzinsky (+), sự bất bình thường trong dịch não tủy. Mặc dù vậy rất hiếm khi tất cả các triệu chứng này có trong một bệnh cụ thể nào đó. Sự xuất hiện dù là một trong các triệu chứng đó cũng sẽ gợi ý tới khả năng nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương.

Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương được coi là tình trạng cấp cứu. Cần tiến hành các bước chẩn đoán ngay để xác định nguyên nhân đặc hiệu. Thông thường các bước đó bao gồm: hỏi bệnh sử, thăm khám lâm sàng, xét nghiệm công thức máu, cấy máu, chọc dò tủy sống làm xét nghiệm và cấy dịch não tủy, chụp phim X quang lồng ngực. Đối với dịch não tủy, cần đếm số lượng tế bào, đường, protein, nhuộm soi lam kính đối với vi khuẩn (cả vi khuẩn kháng cồn kháng toan khi cần thiết), nuôi cấy đối với các vi khuẩn sinh mủ, vi khuẩn lao và nấm nếu có chỉ định. Các test miễn dịch huỳnh quang và ngưng kết hạt latex có thể phát hiện được kháng nguyên của các vi khuẩn có vỏ (S. pneumoniae, H. influenzae, N. meningitidis và Cryptococcus neoformans). Các test này đặc biệt có hiệu quả khi bệnh nhân đã được điều trị kháng sinh do đó kết quả cấy dịch não tủy thường âm tính. Mặc dù xác định căn nguyên rất khó khăn nhưng đối với viêm não màng mủ thì việc sử dụng kháng sinh sớm vẫn được khuyến cáo vì thực tế cho thấy bệnh sẽ tiến triển tốt hơn.

Do chọc dịch não tủy trong những trường hợp có khối choán chỗ (áp xe não, tụ máu dưới màng cứng, áp xe dưới màng cứng) có thể dẫn đến tụt nạo và tử vong, vì vậy chụp cắt lớp não được chỉ định trước khi chọc dịch não tủy nếu nghi ngờ có tổn thương choán chỗ dựa vào phù gai thị, hôn mê, co giật hoặc có các dấu hiệu thần kinh khư trú. Nếu chưa làm được chụp cắt lớp và nghi ngờ có viêm màng não mủ thì phải cấy máu và cho kháng sinh ngay cả trước khi chọc dịch não tủy để tránh điều trị muộn. Nghiên cứu trên động vật cho thấy điều trị kháng sinh trong vòng 4 giờ trước khi lấy dịch não tủy không ảnh hưởng đến kết quả nuôi cấy.

Bảng. Điều trị kháng sinh ban đầu cho những trường hợp viêm màng não mủ chưa rõ căn nguyên

Điều trị kháng sinh ban đầu cho những trường hợp viêm màng não mủ chưa rõ căn nguyên

1Ở những vùng có phế cầu kháng penicillin, phải điều trị kết hợp thêm vancomycin 15mg/kg, mỗi 8 giờ.

2Liều thông thường của cetoaxin là 2g mỗi 6 giờ và của cettriaxon là 2g mỗi 12 giờ. Nếu vi khuẩn nhậy cảm với penicillin thì dùng 3 - 4 triệu đơn vị tiêm tĩnh mạch mỗi 4 giờ.

3Liều thông dụng của ampicillin là 2g tiêm tĩnh mạch mỗi 4 giở.

4Ceftazidim cho với liều 50 - 100mg/kg mỗi 8 giờ, tối đa đến 2g mỗi 8 giờ.

5Liều dùng của vancomycin là 15mg/kg mỗi 8 giờ.

Phân loại theo căn nguyên

Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương có thể được phân thành vài thể bệnh, thông thường có thể dễ phân biệt các thể bệnh với nhau nhờ xét nghiệm dịch não tủy, đây là bước đầu tiên để chẩn đoán căn nguyên.

Viêm màng não mủ

Bệnh nhân viêm màng não mủ thường biểu hiện cấp tính trong vài giờ hoặc 1- 2 ngày sau khi khởi phát các triệu chứng. Các vi khuẩn gầy bệnh phụ thuộc chủ yếu vào tuổi của bệnh nhân. Chẩn đoán thường dựa vào kết quả nhuộm soi (dương tính từ 60 - 80%) và cáy vi khuẩn (dương tính trên 90%).

Viêm màng não mạn tính

Bệnh nhân viêm màng não mạn tính biểu hiện ít cấp tính hơn với các triệu chứng kéo dài trong vài tuần đến vài tháng. Nguyên nhân hay gặp nhất là do vi khuẩn lao, các mycobacteria không điển hình, nấm (cryptococcus, coccidioides, histoplasma) và xoắn khuẩn (Treponema pallidum là tác nhân gây giang mai mạch - màng não, Borrelia burgdorferi là tác nhân gây bệnh Lyme). Chẩn đoán dựa vào kết quả nuôi cấy hoặc dựa vào chẩn đoán huyết thanh (như đối với bệnh do cryptococcus, bệnh do coccidioides, giang mai, bệnh Lyme).

Viêm màng não vô khuẩn

Viêm màng não vô khuẩn là thể lành tính nhất, có thể tự khỏi thường do virus, đặc biệt là virus quai bị, nhóm enterovirus (bao gồm coxsackievirus và echovirus và herpesvirus). Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng cũng có thể có biểu hiện viêm màng não vô khuẩn. Nhiễm leptospira cũng có thường gây viêm màng não vô khuẩn do đáp ứng của tế bào lympho và có diễn biến lành tính. Thể viêm màng não này cũng gặp ở bệnh giang mai giai đoạn 2 và giai đoạn hai của bệnh Lyme.

Viêm não

Viêm não (do herpesvirus, arbovirus và nhiều loại virus khác) biểu hiện bằng rối loạn cảm giác, co giật, và nhiều triệu chứng khác. Dịch não tủy có thể bình thường hoặc có vài bạch cầu lympho.

Bảng. Những dấu hiện điển hình của dịch não tủy trong các bệnh khác nhau của hệ thần kinh trung ương

Những dấu hiện điển hình của dịch não tủy trong các bệnh khác nhau của hệ thần kinh trung ương

1Đường trong dịch não tủy phải được đánh giá trong mối liên hệ với mức đường máu. Bình thường đường trong dịch não tủy là 20 - 30mg/dl, thấp hơn dường máu hoặc chiếm 50 - 70% giá trị bình thường của đường máu.

2Dịch phết hoặc nuôi cấy bệnh phẩm dịch não tủy, điện di miễn dịch đếm hoặc ngưng kết latex có thể giúp cho chẩn doán.

3Bạch cầu hạt trung tính có thể nổi trội trong giai đoạn đầu.

4Phân lập virus từ dịch não tủy từ sớm, hiệu giá kháng thể tăng trong cặp tiêu bản huyết thanh.

5Có thể xảy ra trong viêm xương chũm, áp xe não, áp xe ngoài màng cứng, viêm xoang, huyết khối nhiễm khuẩn, u não. Cấy dịch não tủy thường cho kết quả âm tính.

Viêm màng não mủ dã dùng kháng sinh

Liệu pháp kháng sinh hợp lý được dùng trong vòng 12 - 24 giờ sẽ làm giảm tỷ lệ nhuộm soi vi khuẩn dương tính xuống còn 20% và tỷ lệ cấy dương tính xuống còn 30 - 40%, tuy nhiên ít ảnh hưởng đến các chỉ số đường, protein và số lượng tế bào trong dịch não tủy. Đôi khi điều trị kháng sinh sớm sẽ làm thay đổi sự tăng tế bào đa nhân trung tính bằng sự tăng tế bào lympho và các chỉ số trong dịch não tủy là tương tự như trong các trường hợp viêm màng não vô khuẩn.

Phản ứng cận kề

Thuật ngữ này dùng để chỉ quá trình nhiễm khuẩn mủ rất gần với hệ thần kinh trung ương làm xuất hiện vài sản phẩm của quá trình viêm như là bạch cầu hoặc protein trong dịch não tủy. Các nhiễm khuẩn như vậy có thể là áp xe não, viêm xương tủy của đốt sống, áp xe ngoài màng cứng, tụ mủ dưới màng cứng, viêm xoang nhiễm khuẩn hoặc viêm tai xương chũm.

Kích thích màng não không nhiễm khuẩn

Kích thích màng não xuất hiện với các dấu hiệu cổ điển của kích thhích màng não mà dịch não tủy hoàn toàn bình thường có thể gặp trong một số bệnh nhiễm khuẩn như viêm phổi, lỵ. Viêm màng não do carcinoma, bệnh sarcoid, lupus ban đỏ hệ thống, viêm màng não do hóa chất và một vài loại thuốc (giảm đau kháng viêm không có Steroid, OKT3, trimethoprim - Sulfamethoxazol) cũng có thể gây các dấu hiệu và triệu chứng kích thích màng não kèm biến loạn của dịch não tủy như: tăng bạch cầu, tăng protein, đường bình thường hoặc thấp.

Áp xe não

Áp xe não biểu hiện như tổn thương choán chỗ. Triệu chứng bao gồm nôn, sốt, rối loạn tinh thần hoặc có dấu hiệu thần kinh khu trú. Nếu nghi ngờ có áp xe não cần chụp cắt lớp não trước khi chọc dò tủy sống. Vi khuẩn gây áp xe não thường đa dạng, bao gồm: tụ cầu vàng, trực khuẩn gram(-), liên cầu và vi khuẩn kỵ khí (bao gồm liên cầu kỵ khí và các loài prevotella).

Viêm não - màng não do amíp

Bệnh do thể amip tự do và biểu hiện với hai hội chứng. Khẳng định chẩn đoán dựa vào kết quả nuôi cấy hoặc phân lập vi khuẩn trong dịch não tủy hoặc trong mẫu sinh khiết. Không có điều trị đặc hiệu.

Viêm não màng não do amíp tiên phát do Naeglesia fowleri gây nên, là thể bệnh tối cấp với các biểu hiện kích thích màng não, tiến triển nhanh chóng tới viêm não rồi tử vong. Đã được thông báo về kết quả điều trị viêm não - màng não tiên phát bằng amphotericin B tiêm bắp và tiêm tĩnh mạch.

Viêm não dạng hạt do amíp là đo các loài acanthamoeba. Bệnh biểu hiện trầm lặng bởi các triệu chứng như đau đầu, buồn nôn, nôn, bệnh lý thần kinh sọ não, co giật và liệt nửa người.

Điều trị

Điều trị bao gồm chăm sóc hỗ trợ. Bắt buộc phải chú ý điều trị tăng áp lực nội sọ do phù não. Phải áp dụng các biện pháp tăng thông khí, truyền mannitol (25 - 50g truyền thật nhanh) thậm trí cả dẫn lưu dịch não tủy qua catheter vào não thất để kiểm soát phù não và tăng áp lực nội sọ. Dexamethason (4mg sau mỗi 4 - 6 giờ) có thể làm giảm phù não. Đối với những trường hợp viêm màng não mủ phải điều trị kháng sinh ngay. Bảng hướng dẫn phác đồ điều trị kháng sinh thích hợp cho từng loại vi khuẩn gây bệnh hay gặp tùy theo từng nhóm tuổi được áp dụng ngay từ đầu, cho đến khi xác định được vi khuẩn gây bệnh.

Trong viêm màng não mủ, thời gian điều trị kháng sinh phụ thuộc vào tác nhân gây bệnh: nếu do H.influenzae thì điều trị 7 ngày, não mô cầu: 7 ngày; phế cầu: 10 - 14 ngày, L.monocytogenes: 14 - 21 ngày; trực khuẩn gram(-): 21 ngày.

Mặc dù dexamethazon được chỉ định thường xuyên để điều trị viêm màng não mủ ở trẻ em, các nghiên cứu kiểm chứng đối với người lớn không được thực hiện do vậy việc sử dụng corticosteroid ở người lớn vẫn còn bàn cãi. Ở những vùng có phế cầu kháng penicillin, người ta nhận thấy một điều quan trọng là khi sử dụng corticosteroid đã làm giảm sự ngấm vào màng não của vancomycin. Tuy nhiên cũng có một vài khuyến cáo là nên sử dụng dexamethason với liều 0,15mg/kg tiêm tĩnh mạch mỗi 6 giờ trong 4 ngày cho người lớn đặc biệt khi có độ nhiễm khuẩn cao (tức là nhuộm gram dương tính) và đối với những trường hợp có tăng áp lực nội sọ.

Điều trị áp xe não bao gồm dẫn lưu (mở hoặc hút ổ áp xe) kết hợp với điều trị kháng sinh thích hợp với loại vi khuẩn phân lập được trong vòng 3 - 4 tuần. Phác đổ thường được áp dụng bao gồm metronidazol 500mg, tiêm tĩnh mạch mỗi 8 giờ, kết hợp với ceftrizoxim 2g tiêm tĩnh mạch mỗi 8 giờ hoặc ceftriaxon 2g mỗi 12 giờ. Trong những trường hợp ổ áp xe nhỏ hơn 2cm hoặc có nhiều ổ áp xe không thể dẫn lưu được hoặc ổ áp xe nằm ở những khu vực mà nếu dẫn lưu sẽ ảnh hưởng đến các chức năng thần kinh thì phải điều trị kháng sinh 6 - 8 tuần không có dẫn lưu.

Điều trị các thể viêm màng não khác được bàn luận trong các bài khác.

Bài viết cùng chuyên mục

Sốt phát ban thành dịch do chấy rận (do rickettsia)

Những yếu tố làm bệnh dễ lây truyền là sống đông người, chật chội, hạn hán, chiến tranh hoặc bất kỳ hoàn cảnh nào chấy rận nhiều

Sốt phát ban thành dịch do bọ chét

Ban ở dạng dát sẩn tập trung ở thân mình và mờ đi tương đối nhanh, ít gặp bệnh nhân tử vong và thường chỉ xảy ra ở người già.

Nhiễm khuẩn do liên cầu ngoài nhóm A

Liên cầu viridans là nhóm không gây tan máu, hoặc gây tan máu kiểu α (tức là gây vùng tan máu màu xanh lá cấy trên đĩa thạch) và là thành phần của vi khuẩn chí bình thường ở miệng.

Các bệnh do lậu cầu khuẩn

Ở nam giới, lúc đầu có đái nóng, và dịch trắng hoặc ngà ở ngay đầu. Vài ba ngày sau, đái đau rõ dần và dịch tiết quy đầu vàng sẫm hơn đặc như kem, nhiều và có thể lẫn máu.

Thủy đậu (varicella) và zona

Sốt và khó chịu thường nhẹ ở trẻ em, và nặng hơn ở người lớn, các tổn thương phỏng nước nhanh chóng vỡ ra tạo thành những vết loét nhỏ.

Các loại bệnh do Campylobacte gây ra

C. fetus gây bệnh toàn thân, thậm chí có thể gây tử vong như nhiễm khuẩn huyết tiên phát, viêm nội tâm mạc, viêm màng não, áp xe khu trú.

Sốt phát ban do mò truyền

Sốt phát ban do mò truyền bởi con Orientia tsutsugamushi. Đây là sinh vật ký sinh chủ yếu ở loài gặm nhâm truyền bệnh qua các con mò ở vùng có dịch tễ được trình bày ở trên.

Các bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn kỵ khí

Dưới đây sẽ điểm qua các bệnh nhiễm khuẩn chủ yếu do các vi khuẩn kỵ khí gây ra. Điều trị chung cho các bệnh này bao gồm mổ thăm dò ngoại khoa, cắt lọc đủ rộng và dùng kháng sinh.

Viêm niệu đạo và viêm cổ tử cung do Chlamydia

Điều trị thường theo giả định. Bạn tình của bệnh nhân cũng cần được điều trị. Cách điều trị hiệu quả là tetracyclin hoặc erythromycin 500mg uống ngày 4 lần.

Virus và viêm dạ dày ruột

Virus Norwalk và giống Norwalk chiếm khoảng 40% số các trường hợp ỉa chảy do virus đường tiêu hóa gây ra. Bệnh thường lây truyền qua con đường phân miệng.

Viêm não đám rối màng mạch tăng lympho bào

Triệu chứng biểu hiện bằng 2 giai đoạn. Giai đoạn tiền triệu biểu hiện bằng sốt, rét run, đau cơ, ho và nôn. Giai đoạn màng não biểu hiện đau đầu, buồn nôn, nôn và ngủ lịm.

Nhiễm khuẩn do Moraxeila catarrhalis

Vi khuẩn này thường cư trú tại đường hô hấp, nên phân biệt giữa gây bệnh và bình thường là rất khó. Khi phân lập được đa số là vi khuẩn này, cần điều trị tiêu diệt chúng.

Viêm phổi do phế cầu

Những bệnh nhân bị bệnh nặng hoặc có các bệnh khác kèm theo cần điều trị nội trú bằng thuốc tiêm, penicillin G, 2 triệu đơn vị môi lần, ngày 6 lần.

Bệnh do các loài vi khuẩn Bartonella

Bệnh u mạch lan toả do trực khuẩn, là một trong những bệnh quan trọng do vi khuẩn Bartonella gây ra, Sốt chiến hào là bệnh sốt tái phát do rận truyền, tự khỏi do B. quintana gây ra.

Ngộ độc Clostridium botulinum

Đây là bệnh ngộ độc thức ăn do ăn phải độc tố có sẵn thường do các typ A, B hoặc E của vi khuẩn Clostridium botulinum, đây là một trực khuẩn có nha bào, kỵ khí tuyệt đối, có ở khắp nơi trong đất.

Sốt đốm xuất huyết vùng núi Rocky

Tăng bạch cầu, giảm tiểu cầu, hạ natri máu, protein niệu, hồng cầu niệu là hay gặp. Dịch não tủy có thể có glucose giảm, tăng nhẹ bạch cầu lympho.

Bệnh do vi khuẩn Listeria

Vi khuẩn huyết, có hoặc không có triệu chứng nhiễm khuẩn máu ở trẻ sơ sinh hoặc ở người lớn có suy giảm miễn dịch. Bệnh biểu hiện dưới dạng sốt không rõ nguồn gốc.

Nhiễm echovirus

Cũng như nhiễm các virus đường tiêu hóa khác, chẩn đoán cần dựa vào sự tương quan giữa lâm sàng, dịch tễ và xét nghiệm. Có thể nuôi cấy các virus từ dịch súc họng, máu hoặc dịch não tủy vào các tế bào.

Nhiễm khuẩn tụ cầu không tiết coagulase

Vì tụ cầu không tiết coagulase là vi khuẩn bình thường trên da người, nên phân lập được nó khó có thể nói đó là nhiễm khuẩn hay nhiễm bẩn khi cấy máu mà tìm thấy có vi khuẩn này.

Bệnh do Legionella

Thuốc đặc trị bệnh do Legionella gây nên là erythromycin, liều ban đầu là 1g, tiêm tĩnh mạch ngày 4 lần, sau đó giảm xuống còn 500mg ngày uống 4 lần khi bệnh có dấu hiệu cải thiện; thời gian điều trị là 14 - 21 ngày.

Bệnh do Leptospira

Nước tiểu có thể có sắc tố mật, protein, cặn và hồng cầu. Đái ít không phải là ít gặp và trong các trường hợp nặng tăng urê máu có thể xuất hiện.

Những tác nhân gây bệnh giống virus có thời gian tiềm tàng kéo dài

Chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu mà chỉ có phòng bệnh bằng cách tránh lây nhiễm từ tổ chức não bị bệnh, điện cực, dụng cụ phẫu thuật thần kinh hoặc tránh ghép giác mạc.

Vãng khuẩn huyết và nhiễm trùng huyết do vi khuẩn gram âm

Kháng sinh phải được dùng ngay khi có chẩn đoán, vì điều trị chậm sẽ làm tăng tỷ lệ tử vong. Nói chung cần dùng bằng đường tĩnh mạch để đảm bảo được nồng độ cần thiết.

Nhiễm tụ cầu khuẩn huyết

Trường hợp bệnh nhân có nguy cơ cao như người tiểu đường, người có suy giảm miễn dịch hoặc nghi ngờ có viêm nội tâm mạc, người ta khuyên nên dùng dài ngày hơn.

Diễn biến tự nhiên và các nguyên tắc chẩn đoán và điều trị Giang mai

Các thông số dịch não tủy trong giang mai thần kinh rất đa dạng, Các ca bệnh cổ điển thường có protein tăng, nhiều bạch cầu lympho và phản ứng VDRL dương tính.