- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh truyền nhiễm
- Nhiễm khuẩn bệnh viện
Nhiễm khuẩn bệnh viện
Nói chung, các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện thường có xu hướng đa kháng và không nhậy cảm với các loại kháng sinh dùng để điều trị nhiễm khuẩn tại cộng đồng.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Nhiễm khuẩn bệnh viện là những thể bệnh mắc phải trong quá trình điều trị tại bệnh viện. Hiện tại ở Mỹ có khoảng 3 - 7% số bệnh nhân không bị nhiễm khuẩn khi vào viện đã mắc nhiễm khuẩn bệnh viện. Nhìn chung các bệnh nhân mắc nhiễm khuẩn bệnh viện là do các vi khuẩn thường gặp vì bản thân người bệnh đã tăng nhậy cảm với nhiễm khuẩn hoặc do phải thực hiện các thủ thuật tại bệnh viện.
Nhiễm khuẩn bệnh viện có thể qui cho những lĩnh vực chăm sóc y tế sau:
(1) Nhiều bệnh nhân nằm viện (đặc biệt tại những bệnh viện chăm sóc hộ lý cấp III mà tại đây tỷ lệ nhiễm khuẩn cao nhất) bị suy giảm đáp ứng miễn dịch hoặc tổn thương cơ chế bảo vệ tự nhiên (loét da, nguy cơ hít sặc...). Những bệnh lý này có thể là bẩm sinh nhưng phần lớn mắc phải do hậu quả của việc sử dụng cắc loại thuốc chống ung thư, thuốc duy trì ghép tạng hoặc để ức chế quá trình tự miễn. Đặc biệt người già hoặc trẻ em rất dễ bị nhiễm khuẩn.
(2) Nhiều lĩnh vực chăm sóc y tế đòi hỏi những thủ thuật gây chảy máu để chẩn đoán, theo dõi và điều trị. Ví dụ đặt sonde bàng quang, đặt đường truyền tĩnh mạch để đo lượng dịch truyền hoặc thuốc, nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch, đặt ống dẫn lưu và các cầu nối (shunt).
(3) Các chất liệu sử dụng trong chăm sóc tích cực chính là vectơ nhiễm khuẩn. Ví dụ hay gặp nhất là dịch truyền tĩnh mạch hoặc các chai lọ chứa chung bị nhiễm bẩn; máy thở và dụng cụ làm ẩm có thể truyền vi khuẩn vào phổi; các ống nhựa có thể mang vi khuẩn vào trong cơ thể.
(4) Sử dụng kháng sinh rộng rãi dẫn đến sự chọn lọc vi khuẩn kháng thuốc đối với cả bệnh nhân lẫn môi trường bệnh viện. Vì vậy, nhiễm khuẩn bệnh viện thường do các chủng vi khuẩn nội sinh trong cơ thể người hoặc các vi khuẩn tự do nhưng đặc biệt kháng với kháng sinh, làm cho việc điều trị rất khó khăn. Những vi khuẩn này thường không được coi là tác nhân gây bệnh nhưng có thể xếp vào nhóm vi khuẩn cơ hội.
Các vị trí chủ yếu của nhiễm khuẩn bệnh viện là đường tiết niệu, vết thương ngoại khoa, đường hô hấp, và da do tiêm hoặc đặt ống thông. Các nhiễm khuẩn bệnh viện thường gặp nhất là do vi khuẩn gram (-) đường ruột, tụ cầu và nấm, đặc biệt ở những bệnh nhân có số lượng bạch cầu hạt dưới 500/µl, là hậu quả của điều trị hóa chất chống ung thư hoặc chống thải ghép. Ở những bệnh nhân thường có sự xâm nhiễm vi khuẩn vào dòng máu mà không rõ đường vào. Những bệnh nhân bị ức chế miễn dịch trung gian tế bào thì có thể bị nhiễm virus trong bệnh viện như thủy đậu - zona, cytomegalovirus và viêm gan. Cũng có thể nhiễm các loại vi khuẩn cơ hội như legionella, nocardia và p.carinii.
Nói chung, các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện thường có xu hướng đa kháng và không nhậy cảm với các loại kháng sinh dùng để điều trị nhiễm khuẩn tại cộng đồng. Ví dụ: tụ cầu vàng gây nhiễm khuẩn bệnh viện có thể kháng với nafcillin và cephalosporin; tụ cầu trắng là vi khuẩn rất hay gây bệnh ở những bệnh nhân có dị vật (cầu nối, ống nuôi dưỡng, van tim nhân tạo...) và cũng kháng với Nafcillin và chỉ nhậy cảm với vancomycin. Những vi khuẩn gram (-) gây nhiễm khuẩn bệnh viện có thể ít gặp (các loài enterobacter, acinetobacter, pseudomonas) và chỉ nhậy cảm với aminoglycosid, các quinolon hoặc imipenem. Vì những lí do như vậy nên lựa chọn phác đồ điều trị theo kinh nghiệm bằng những loại kháng sinh như vancomycin và tobramycin (quinolon hoặc imipenem) là rất cần thiết cho đến khi phân lập được vi khuẩn gây bệnh đặc hiệu và xác định được tính nhậy cảm của chúng, lúc đó có thể sử dụng các loại kháng sinh có tác dụng mà ít độc hơn và rẻ hơn. Vi khuẩn và tính nhậy cảm kháng sinh trong nhiễm khuẩn bệnh viện rất đa dạng, do vậy phải tùy theo từng trường hợp để điều trị tốt nhất cho những bệnh nhân này.
Phòng bệnh là biện pháp quan trọng để kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện. Tất cả các bệnh nhân phải được điều trị như là họ đang mắc các bệnh lây truyền qua đường máu và các chất thải từ cơ thể phải được xử lí cẩn thận để tránh lây bệnh. Hầu hết các bệnh viện phải có phương tiện bảo vệ sự lây truyền, bắt buộc sử dụng găng tay đối với nhân viên y tế có tiếp xúc với máu và chất thải của cơ thể. Sử dụng găng tay để phòng lây chéo trực tiếp từ tay nhân viên y tế đã tiếp xúc với các chất thải nhiễm bệnh sang cho những bệnh nhân khác. Quan niệm cách li bằng phương tiện bảo hộ xuất phát từ thực tế rằng sự lây chéo từ tay nhân viên y tế sang người bệnh đối với nhiễm khuẩn bệnh viện sẽ giảm xuống rõ rệt khi sử dụng găng tay như một rào chắn bảo vệ. Tuy nhiên, ngay cả khi đã sử dụng găng tay, lây chéo qua tay vẫn xảy ra đối với 13% các trường hợp trong cùng thời điểm (do không đi găng); điều này cho thấy tầm quan trọng của việc rửa tay. Rửa tay là biện pháp dễ nhất và hiệu quả nhất để phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện, và nó phải được thực hiện thường xuyên ngay cả khi đã sử dụng găng tay. Các thủ thuật y tế như đặt sonde Foley, đặt đường truyền tĩnh mạch, các biện pháp theo dõi huyết động học, nuôi dưỡng đường tĩnh mạch chỉ nên sử dụng khi thật cần thiết và phải ngừng trong thời gian ngắn nhất nếu có thể. Đường truyền tĩnh mạch ngoại biên phải được thay sau mỗi ba ngày và sau mỗi bốn ngày đối với đường truyền động mạch. Đường truyền tĩnh mạch trung tâm có thể để với thời gian không xác định và phải thay hoặc tháo bỏ khi có dấu hiệu nhiễm khuẩn, hoặc khi chúng hết chức năng hoặc nếu không cần thiết. Phương pháp sử dụng kháng sinh không hấp thụ tại đường tiêu hoá để phòng ngừa viêm phổi mắc phải tại bệnh viện được áp dụng rộng rãi ở châu Âu nhưng hiệu quả điều trị của biện pháp đắt tiền này thì trái ngược. Chăm sóc tích cực (thay đổi tư thế chống loét, săn sóc vết thương, nằm cao đầu trong thời gian nuôi dưỡng qua sonde để phòng hít sặc) là biện pháp phòng nhiễm khuẩn bệnh viện có hiệu quả. Hơn nữa việc theo dõi cẩn thận của các nhân viên y tế có kinh nghiệm, các nhà dịch tễ học đối với những khoa phòng có nguy cơ cao (phòng hồi sức cấp cứu, khoa sơ sinh, khoa ngoại, khoa thận nhân tạo và cấy ghép..) nhằm phát hiện sớm sự gia tăng tỷ lệ nhiễm khuẩn là yếu tố chủ chốt để phòng chống các nhiễm khuẩn bệnh viện.
Bài viết cùng chuyên mục
Diễn biến tự nhiên và các nguyên tắc chẩn đoán và điều trị Giang mai
Các thông số dịch não tủy trong giang mai thần kinh rất đa dạng, Các ca bệnh cổ điển thường có protein tăng, nhiều bạch cầu lympho và phản ứng VDRL dương tính.
Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương
Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương có thể được phân thành vài thể bệnh, thông thường có thể dễ phân biệt các thể bệnh với nhau nhờ xét nghiệm dịch não tủy, đây là bước đầu tiên để chẩn đoán căn nguyên.
Tạo miễn dịch khuyến cáo cho những người du lịch
Khi các đối tượng yêu cầu các bác sĩ cho biết thông tin và tiêm vaccin để đi du lịch, toàn bộ lịch tiêm chủng của họ nên được xem xét và cập nhật.
Bệnh u hạt lympho hoa liễu
Ớ nam giới, tổn thương ban đầu dạng mụn phỏng hoặc nốt loét ở bộ phận sinh dục ngoài, nó biến đi nhanh chóng nên thường bị bỏ qua, không được bệnh nhân để ý.
Bệnh xoắn khuẩn không lây qua đường tình dục
Ghẻ cóc là một bệnh truyền nhiễm phân bổ chủ yếu ở các vùng nhiệt đới, do T. pallidum dưới nhóm pertenue gây nên. Đặc trưng của bệnh là các tổn thưong u hạt ở da, niêm mạc và xương.
Viêm não đám rối màng mạch tăng lympho bào
Triệu chứng biểu hiện bằng 2 giai đoạn. Giai đoạn tiền triệu biểu hiện bằng sốt, rét run, đau cơ, ho và nôn. Giai đoạn màng não biểu hiện đau đầu, buồn nôn, nôn và ngủ lịm.
Bệnh than
Khi bệnh biểu hiện trên da, thường thấy các ban đỏ tại vùng bị thương và nhanh chóng chuyển sang các mụn phỏng màu hồng rồi màu đen ở giữa. Vùng xung quanh phù nề và nổi mụn phỏng.
Bệnh viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn
Đa số bệnh nhân bị viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là có bệnh tim từ trước, ngược với một số trường hợp xảy ra trên người không có bệnh tim, chủ yếu là ở người tiêm chích.
Bệnh mèo cào
Nhưng vi khuẩn Bartonella quintana cũng có thể gây bệnh u mạch lan toả do vi khuẩn và viêm nội tâm mạc mà khi cấy vi khuẩn không mọc.
Quai bị
Nhậy cảm đau vùng mang tai và vùng mặt tương ứng phù nề là dấu hiệu thực thể hay gặp nhất. Đôi khi sưng ở một tuyến giảm hoàn toàn trước khi tuyến kia bắt đầu sưng.
Bệnh dại
Bệnh dại hầu hết là tử vong, những người sống sót có thể là do nhiễm virus giống dại. Người thầy thuốc đối diện với vấn đề thường gặp nhất trên lâm sàng là xử trí bệnh nhân bị động vật cắn.
Nhiễm virus Poxvirus
Vaccin bệnh đậu bò có khả năng loại trừ một phần bệnh đậu mùa. Vaccin thông thường chỉ được dùng cho người ở phòng xét nghiệm vì người này phải tiếp xúc với virus.
Sốt xuất huyết
Những người có triệu chứng giống như những triệu chứng của bệnh sốt xuất huyết và những người đến từ vùng dịch tễ phải được cách ly để chẩn đoán vả điều trị triệu chứng.
Vãng khuẩn huyết do Salmonella
Đôi khi nhiễm khuẩn do salmonella có thể biểu hiện dưới dạng sốt kéo dài hoặc sốt tái phát có kèm vi khuẩn trong máu và có các ổ nhiễm khuẩn ở xương, khớp.
Rubeon: bệnh sởi Đức
Sốt, mệt mỏi thường nhẹ, xuất hiện cùng với sưng viêm hạch dưới vùng chẩm, có thể xuất hiện trước phát ban khoảng 1 tuần. Có thế có sổ mũi.
Sốt do chuột cắn
Sốt do chuột cắn cần được phân biệt với viêm hạch và phát ban do chuột cắn trong sốt do Streptobacillus gây nên. Về mặt lâm sàng, viêm khớp và đau cơ nặng.
Sốt do ve Colorado
Cần phải chẩn đoán phân biệt bệnh sốt do ve Colorado với các bệnh: cúm, nhiễm Rickettsia rickettsii, vả những bệnh sốt có giảm bạch cầu cấp tính khác.
Bệnh do Chlamydia pneumoniae chủng TWAR
Chlamydia pneumoniae gây viêm phổi, viêm phế quản và có mối liên quan với bệnh mạch vành qua dịch tễ huyết thanh học. Bệnh cảnh viêm phổi kiểu không điển hình.
Cúm
Có thể dùng vaccin cho những người nhiễm HIV mà vẫn an toàn. Mối lo lắng về sự hoạt hóa nhân lên của virus HIV do các yếu tố gây miễn dịch có thể là quá mức cần thiết.
Bệnh do các loài vi khuẩn Bartonella
Bệnh u mạch lan toả do trực khuẩn, là một trong những bệnh quan trọng do vi khuẩn Bartonella gây ra, Sốt chiến hào là bệnh sốt tái phát do rận truyền, tự khỏi do B. quintana gây ra.
Viêm phổi do phế cầu
Những bệnh nhân bị bệnh nặng hoặc có các bệnh khác kèm theo cần điều trị nội trú bằng thuốc tiêm, penicillin G, 2 triệu đơn vị môi lần, ngày 6 lần.
Các bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn kỵ khí
Dưới đây sẽ điểm qua các bệnh nhiễm khuẩn chủ yếu do các vi khuẩn kỵ khí gây ra. Điều trị chung cho các bệnh này bao gồm mổ thăm dò ngoại khoa, cắt lọc đủ rộng và dùng kháng sinh.
Nhiễm khuẩn ở những người tiêm chích
Các bệnh lây truyền qua đường tình dục không liên quan trực tiếp đến tiêm chích nhưng qua thực tế quan hệ tình dục để trao đổi ma tuý đã làm tăng tần suất các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Các loại bệnh do Campylobacte gây ra
C. fetus gây bệnh toàn thân, thậm chí có thể gây tử vong như nhiễm khuẩn huyết tiên phát, viêm nội tâm mạc, viêm màng não, áp xe khu trú.
Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn
Trong trường hợp có tổn thương hệ thần kinh trung ương dịch não tủy cho thấy tăng áp lực, các tế bào lympho bất thường và protein.