Ỉa chảy ở người du lịch

2016-02-29 04:35 PM

Tránh dùng thức ăn và nguồn nước để lạnh dễ bị nhiễm bẩn ở những người du lịch tới các nước đang phát triển nơi mà bệnh ỉa chảy nhiễm khuẩn đang là dịch lưu hành.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Bất cứ khi nào một người đi du lịch từ nước này tới nước khác, đặc biệt nếu có thay đổi rõ rệt về khí hậu, điều kiện xã hội hoặc các phương tiện và tiêu chuẩn vệ sinh - ỉa chảy dường như sẽ xuất hiện trong vòng 2 - 10 ngày. Nó có thể kéo dài trên 10 ngày hoặc thậm chí phân lỏng hơn, thường có kèm theo đau rút cơ bụng, buồn nôn, đôi khi nôn và hiếm khi sốt. Phân thường không có nhầy hoặc máu và bên cạnh đó là yếu mệt, mất nước, đôi khi có toan chuyển hoá, không có các biểu hiện toàn thân của nhiễm khuẩn. Bệnh thường giảm tự nhiên trong vòng 1- 5 ngày, mặc dù 10% vẫn còn các triệu chứng trong khoảng 1 tuần hoặc dài hơn nữa và khoảng 2% có các triệu chứng tồn tại kéo dài hơn 1 tháng.

Vi khuẩn là nguyên nhân gây ỉa chảy ở 80% số trường hợp, với ngoại độc tố  E.coli, các loài shigella và Campylobacter jejuni, là các tác nhân gây bệnh thường gặp nhất. Các tác nhân ít gặp bao gồm aeromonas, salmonella, xoắn khuẩn không phải khuẩn tả, Entamoeba histolytica và Giardia lamblia. Các yếu tố tham gia đôi khi bao gồm thức và đồ uống không thường dùng, do sự thay đổi thói quen sống, do nhiễm các virus hiếm gặp (adenovirus hoặc rotavirus) và thay đổi hệ vi khuẩn chí đường ruột, ở các bệnh nhân có sốt và ỉa chảy có máu, cấy phân có thể được chỉ định, nhưng trong hầu hết các trường hợp cấy phân được dùng cho những bệnh nhân không đáp ứng với kháng sinh điều trị. Ỉa lỏng mạn tính có thể do amíp hoặc giardia hoặc hiếm hơn là bệnh spru nhiệt đới.

Đối với hầu hết các bệnh nhân, bệnh thường ngắn ngày và điều trị triệu chứng bằng các loại opiat hoặc diphenoxylat cùng với atropin là tất cả những gì cần cho các bệnh nhân không có biểu hiện toàn thân (sốt > 390C) và không có biểu hiện của lỵ (phân có máu). Trong những trường hợp này thì nên tránh dùng các tác nhân chống co thắt. Có sẵn các gói muốt "bù nước" đường uống để điều trị mất nước (Infalyte, Pedialyte...). Tránh dùng thức ăn và nguồn nước để lạnh dễ bị nhiễm bẩn ở những người du lịch tới các nước đang phát triển nơi mà bệnh ỉa chảy nhiễm khuẩn đang là dịch lưu hành. Dự phòng được khuyên dùng đối với những người có bệnh rõ rệt (bệnh viêm ruột, AIDS, đái tháo đường, bệnh tim ở người già, những tình trạng cần dùng các thuốc gây ức chế miễn dịch) và đối với những người cần thiết phải hoạt động nhiều trong chuyến đi, ngay cả những những đợt ỉa chảy ngắn cũng không thể chấp nhận được. Dự phòng được bắt đầu ngay từ khi tới một nước nào đó và tiếp tục 1- 2 ngày sau khi rời khỏi nước này. Đối với những người ở lại lâu trên 3 tuần thì không cần thiết điều trị dự phòng vì giá thành và độc hại sẽ tăng lên. Bismuth subsalicylat có hiệu quả đối với dự phòng, nhưng chuyển lưỡi và phân thành màu xanh và có thể cản trở sự hấp thu của doxycyclin, là thuốc cần dùng để dự phòng sốt rét. Rất nhiều thuốc diệt khuẩn cũng có hiệu quả đối với dự phòng như norfloxacin 400mg, ciprofloxacin 500mghoặc ofloxacin 300mghoặc trimethoprim/sulfamethoxazol 160/800mg, dùng 1 lần/ngày. Bởi vì không phải tất cả khách du lịch sẽ bị ỉa chảy và bởi vì hầu hết các giai đoạn thường rất ngắn và tự khỏi nên có thể dùng thay đổi thuốc cho người du lịch bằng kháng sinh từ 3 - 5 ngày nếu như ỉa chảy rõ rệt xảy ra trong chuyên đi. Các thuốc thông thường bao gồm ciprofloxacin, 500mg, 2 lần/ngày hoặc norfloxacin 400mg, 2 lần/ngày và trimethoprim / sulfamethoxazol 160/800mg, 2 lần/ngày. Aztreonam là dạng monobactam hấp thụ kém với tác dụng chống lại hầu hết các vi khuẩn gây bệnh đường ruột, cũng có hiệu quả khi dùng bằng đường uống với liều 100mg, 3 lần/ngày trong 5 ngày.

Bài viết cùng chuyên mục

Nhiễm tụ cầu khuẩn huyết

Trường hợp bệnh nhân có nguy cơ cao như người tiểu đường, người có suy giảm miễn dịch hoặc nghi ngờ có viêm nội tâm mạc, người ta khuyên nên dùng dài ngày hơn.

Viêm màng não do phế cầu

Các chủng kháng penicillin lại thường có kháng chéo cả với cephalosporin thế hệ 3. Kháng sinh đồ là hết sức cần thiết trong những trường hợp như vậy.

Bệnh bại liệt

Suy hô hấp là hậu quả của liệt cơ hô hấp, tắc nghẽn đường hô hấp do tổn thương các nhân của dây thần kinh sọ, hoặc ổ thương trung hô hấp.

Các bệnh do Mycobacteria không điển hình, không phải lao

Các thuốc có tác dụng trong điều trị là rifabutin, azithromycin, clarithromycin, và ethambutol, Amikacin và ciprofloxacin có tác dụng trên thí nghiệm nhưng số liệu về lâm sàng còn chưa đủ để kết luận.

Bệnh do Hantavirus

Chẩn đoán dựa vào phản ứng huyết thanh học bằng nhuộm hóa học mô miên dịch hoặc bằng kỹ thuật khuyếch đại PCR của ADN virus trong tổ chức.

Nhiễm virus herpes typ 6, 7, 8 (HHV)

Nhóm virus này có liên quan tới thải bỏ mảnh ghép và ức chế tủy xương ở người ghép tổ chức, gây viêm phổi và viêm não ở bệnh nhân AIDS.

Bệnh do Brucella

Khởi phát thường đột ngột: sốt, rét run, toát mồ hôi nhưng thông thường chỉ khởi phát âm ỉ. Bệnh nhân đến khám sau nhiều tuần có mệt mỏi, sút cân, sốt nhẹ, ra mồ hôi, mệt nhanh dù làm việc nhẹ.

Nhiễm virus Poxvirus

Vaccin bệnh đậu bò có khả năng loại trừ một phần bệnh đậu mùa. Vaccin thông thường chỉ được dùng cho người ở phòng xét nghiệm vì người này phải tiếp xúc với virus.

Nhiễm khuẩn do vi khuẩn lao

Vì khi bắt đầu điều trị thường chưa có kết quả kháng sinh đồ, nên thường phải dựa vào độ mạnh của thuốc hoặc số liệu về tỷ lệ kháng thuốc trong cộng đồng hoặc trong quần thể bệnh nhân.

Ngộ độc Clostridium botulinum

Đây là bệnh ngộ độc thức ăn do ăn phải độc tố có sẵn thường do các typ A, B hoặc E của vi khuẩn Clostridium botulinum, đây là một trực khuẩn có nha bào, kỵ khí tuyệt đối, có ở khắp nơi trong đất.

Nhiễm khuẩn tụ cầu không tiết coagulase

Vì tụ cầu không tiết coagulase là vi khuẩn bình thường trên da người, nên phân lập được nó khó có thể nói đó là nhiễm khuẩn hay nhiễm bẩn khi cấy máu mà tìm thấy có vi khuẩn này.

Bệnh do virus cự bào

Biểu hiện bằng hội chứng vàng da sơ sinh, gan lách to, giảm tiểu cầu, calci hóa hệ thống thần kinh trung ương ở vủng quanh não thất, chậm phát triển tâm thần, mất khả năng vận động, xuất huyết.

Những virus ái tính với tế bào lympho T ở người (HTLV)

Corticosteroid điều trị thành công bệnh tủy sống do HTLV gây ra. Những thuốc kháng virus không thấy có tác dụng rõ ràng trong điều trị bệnh lý tủy sống do HTVL và hoặc ATL.

Viêm dạ dày ruột do Escherichia Coli

Kháng sinh không có tác dụng, điều trị nâng đỡ là chủ yếu. Khi có tiêu chảy và hội chứng urê huyết - huyết tán đồng thời, cần nghĩ tới E. coli gây xuất huyết và phát hiện chúng.

Nhiễm khuẩn bệnh viện

Nói chung, các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện thường có xu hướng đa kháng và không nhậy cảm với các loại kháng sinh dùng để điều trị nhiễm khuẩn tại cộng đồng.

Nhiễm khuẩn da và mô mềm do tụ cầu vàng

Viêm da do tụ cầu vàng thường khởi đầu quanh một hay nhiều ổ viêm nang lông, và có thể khu trú để tạo thành nhọt hoặc lan rộng đến vùng da lân cận và tới các mô sâu dưới da tạo thành ung nhọt lớn.

Nhiễm echovirus

Cũng như nhiễm các virus đường tiêu hóa khác, chẩn đoán cần dựa vào sự tương quan giữa lâm sàng, dịch tễ và xét nghiệm. Có thể nuôi cấy các virus từ dịch súc họng, máu hoặc dịch não tủy vào các tế bào.

Bệnh do Ehrlichiae

Ehrlichiae bạch cầu hạt ở người gần đây xuất hiện nhiều hơn. Phân bố địa lý của bệnh giống bệnh Lyme, mặc dù ranh giới phân vùng của bệnh chưa được xác định đầy đủ.

Vết thương do người và xúc vật cắn

Vi khuẩn gây nhiễm khuẩn các vết cắn phụ thuộc vào súc vật cắn và thời điểm nhiễm khuẩn vết thương sau khi bị cắn, Pasteunrella multocida gây nhiễm khuẩn vết thương do chó và mèo cắn rất sớm

Nhiễm khuẩn do Hemophilus influenzae

Ớ người lớn ít gặp chủng hemophilus tiết men β lactamase hơn ở trẻ em. Có thể điều trị với người lớn bị viêm xoang, viêm tai hay nhiễm khuẩn đường hô hấp bằng amoxicillin 500mg.

Viêm màng não do lao

Ngay cả khi cấy cho kết quả âm tính cũng cần điều trị đủ liệu trình nếu lâm sàng có dấu hiệu gợi ý là viêm màng não.

Nhiễm khuẩn do các cầu khuẩn ruột

Vì các kháng sinh này đều không phải là loại kháng sinh diệt khuẩn đối với cầu khuẩn ruột, nên trong trường hợp viêm nội tâm mạc hoặc nhiễm khuẩn nặng khác.

Sốt đốm xuất huyết vùng núi Rocky

Tăng bạch cầu, giảm tiểu cầu, hạ natri máu, protein niệu, hồng cầu niệu là hay gặp. Dịch não tủy có thể có glucose giảm, tăng nhẹ bạch cầu lympho.

Viêm dạ dày ruột do Salmonella

Bệnh thường tự hết, nhưng có thể gặp tình trạng vi khuẩn huyết có khu trú ở khớp hoặc trong xương, nhất là ở những bệnh nhân mắc bệnh hồng cầu hình liềm.

Các bệnh lây truyền qua đường tình dục

Với mỗi bệnh nhân có một hoặc nhiều lần quan hệ tình dục thì đều phải được chẩn đoán và điều trị theo nguyên tắc là bạn tình phải được điều trị đồng thời để tránh khả năng tái nhiễm.