- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh truyền nhiễm
- Dengue: bệnh virus toàn thân
Dengue: bệnh virus toàn thân
Dengue là bệnh có sốt tự khỏi không đặc hiệu; biểu hiện bệnh rất thay đổi, có thể từ nhiễm virus không có triệu chứng tới xuất huyết nặng và sốc đột ngột gây tử vong.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán
Thời gian ủ bệnh từ 7 - 10 ngày.
Khởi phát đột ngột với sốt cao, rét run, đau mỏi nhiều, đau đầu, viêm họng, mệt là và trầm cầm.
Sốt 2 pha: giai đoạn đầu từ 3 - 7 ngày rồi sốt giảm sau vài giờ hoặc 2 ngày; giai đoạn 2 từ 1- 2 ngày.
Phát ban 2 pha: pha đầu, ban thường mờ nhạt, sau đó xuất hiện dát sẩn, ban dạng tinh hồng nhiệt, ban dạng sởi hoặc có chấm xuất huyết với các lứa tuổi xuất hiện từ chân tới thân mình.
Giảm bạch cầu.
Nhận định chung
Dengue là một bệnh do virus (togavirus, flavivirus), lây truyền qua vết đốt của muỗi Aedes. Bệnh có thể do một trong vài typ huyết thanh, phân bố rộng rãi từ vĩ tuyến 25° Bắc tới 25° Nam (như Thái Lan, Ân Độ, Philippin; vùng Caribe gồm Puerto Rico, Cu Ba, Trung Mỹ và châu Phi). Bệnh chỉ xảy ra vào mùa muỗi sinh trưởng nhiều (thời tiết ấm). Thời gian ủ bệnh từ 3 - 15 ngày (thường 7 - 10 ngày). Dịch bệnh xảy ra ở Mỹ vào năm 1986 ở phía Nam Texas và thành phố gần biên giới Mexico.
Các triệu chứng và dấu hiệu
Dengue là bệnh có sốt tự khỏi không đặc hiệu; biểu hiện bệnh rất thay đổi, có thể từ nhiễm virus không có triệu chứng tới xuất huyết nặng và sốc đột ngột gây tử vong. Thể nặng bắt đầu bằng sốt cao đột ngột, rét run, đau đầu nhiều, đau mỏi thân hình và chân tay (“đau như dần”), đồng thời có viêm họng, mệt là và trầm cảm. Kết mạc sung huyết đỏ, ửng đỏ hoặc đốm trên da. Pha sốt thứ nhất kéo dài 3 - 7 ngày, tiếp sau đó giảm từ vài giờ đến vài ngày trong những trường hợp điển hình, nhưng không chắc chắn.
Ban xuất hiện trong 80% số trường hợp trong pha thứ nhất giảm đi hoặc ở pha thứ 2. Giai đoạn sốt thứ 2 kéo dài 1- 2 ngày với các triện chứng giống như ở pha thứ nhất nhưng thường nhẹ hon. Ban có thể là dạng dát sẩn, dạng sởi, dạng tinh hồng nhiệt hoặc là những chấm xuất huyết. Đầu tiên, ban xuất hiện ở mu bàn chân, bàn tay, lan dần tới chân tay, thân mình, cổ, hiếm khi thấy xuất hiện ở mặt. Ban tồn tại từ vài giờ đến vài ngày, sau đó bong vảy.
Ban xuất huyết và xuất huyết tiêu hóa xảy ra trong sốt xuất huyết Dengue có thể do bất cứ phân typ nào ở châu Á gây ra, và ngày càng nhiều ở các vùng Caribe, Mexico, Trung Mỹ và thường có đáp ứng nhớ miễn dịch với nhiễm virus typ huyết thanh 2. Một số virus Dengue có vỏ bọc là glycoprotein tương đồng với một số yếu tố đông máu như plasminogen, bởi vậy sốt xuất huyết có thể biểu hiện phản ứng tự miễn.
Trước khi mọc ban, rất khó có thể phân biệt Dengue với sốt rét, sốt vàng hoặc cúm. Ban giúp cho phân biệt được bệnh một cách rõ ràng.
Các dấu hiệu cận lâm sàng
Giảm bạch cầu là triệu chứng của bệnh. Giảm tiểu cầu xảy ra ở thể có xuất huyết. Người ta có thể phát hiện được virus trong máu ở giai đoạn cấp.
Các biến chứng
Trầm cảm, viêm phổi, suy tủy xương, viêm mông mắt, viêm tinh hoàn và viêm buồng trứng là những biến chứng ít gặp. Sốc cũng có thể xảy ra trong Dengue xuất huyết.
Phòng bệnh
Các phương pháp phòng bệnh bao gồm kiểm soát muỗi bằng cách phát hiện và xua đuổi muỗi, đặc biệt là vào sáng sớm và chiều tối. Đã có vaccin có tác dụng nhưng chưa được sản xuất để bán.
Điều trị
Điều trị bắt buộc dùng dung dịch và thuốc nâng huyết áp thích hợp. Dùng acetaminophen hơn là aspirin để giảm đau, khôi phục lại hoạt động thể lực từ từ trong giai đoạn hồi phục kéo dài.
Tiên lượng
Tử vong là hiếm gặp, mặc dù thời gian hồi phục kéo dài.
Bài viết cùng chuyên mục
Nhiễm virus Poxvirus
Vaccin bệnh đậu bò có khả năng loại trừ một phần bệnh đậu mùa. Vaccin thông thường chỉ được dùng cho người ở phòng xét nghiệm vì người này phải tiếp xúc với virus.
Thương hàn
Trong giai đoạn tiền triệu, triệu chứng thực thể nghèo nàn. Về sau có lách to, bụng chướng và đau, chậm nhịp tim, mạch nhỏ và chìm, đôi khi có dấu hiệu màng não.
Nhiễm khuẩn ở những người tiêm chích
Các bệnh lây truyền qua đường tình dục không liên quan trực tiếp đến tiêm chích nhưng qua thực tế quan hệ tình dục để trao đổi ma tuý đã làm tăng tần suất các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Bệnh do vi rút
Kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang thường sử dụng các kháng thể đơn dòng cũng giúp chẩn đoán nhanh một số kháng nguyên trong những tế bào bong vẩy.
Bệnh uốn ván
Triệu chứng đầu tiên là đau và tê vùng vi khuẩn xâm nhập rồi tiếp đến là co cứng cơ vùng lân cận. Tuy nhiên, thường gặp triệu chứng đầu tiên đưa bệnh nhân đến khám là cứng hàm, cứng cổ, khó nuốt và kích thích.
Hoại tử sinh hơi
Bệnh thường khởi phát đột ngột, đau tăng nhanh tại vùng bị bệnh, hạ huyết áp, nhịp tim nhanh, sốt không tương xứng với mức độ nặng.
Nhiễm khuẩn do các cầu khuẩn ruột
Vì các kháng sinh này đều không phải là loại kháng sinh diệt khuẩn đối với cầu khuẩn ruột, nên trong trường hợp viêm nội tâm mạc hoặc nhiễm khuẩn nặng khác.
Nhiễm echovirus
Cũng như nhiễm các virus đường tiêu hóa khác, chẩn đoán cần dựa vào sự tương quan giữa lâm sàng, dịch tễ và xét nghiệm. Có thể nuôi cấy các virus từ dịch súc họng, máu hoặc dịch não tủy vào các tế bào.
Sốt phát ban do mò truyền
Sốt phát ban do mò truyền bởi con Orientia tsutsugamushi. Đây là sinh vật ký sinh chủ yếu ở loài gặm nhâm truyền bệnh qua các con mò ở vùng có dịch tễ được trình bày ở trên.
Nhiễm khuẩn do liên cầu ngoài nhóm A
Liên cầu viridans là nhóm không gây tan máu, hoặc gây tan máu kiểu α (tức là gây vùng tan máu màu xanh lá cấy trên đĩa thạch) và là thành phần của vi khuẩn chí bình thường ở miệng.
Hội chứng sốc nhiễm độc tụ cầu
Đặc điểm của hội chứng sốc nhiễm độc là sốt cao đột ngột, nôn, tiêu chảy kèm theo đau họng, mệt lử và đau đầu. Trong những trường hợp nặng có thể có các biểu hiện như hạ huyết áp, suy thận, suy tim.
Virus hợp bào đường hô hấp
Virus này gây bệnh nặng nhất vào lúc mà kháng thể đặc hiệu của người mẹ hằng định mặc dù nồng độ kháng thể cao có thể làm thay đổi hoặc phòng được bệnh.
Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương
Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương có thể được phân thành vài thể bệnh, thông thường có thể dễ phân biệt các thể bệnh với nhau nhờ xét nghiệm dịch não tủy, đây là bước đầu tiên để chẩn đoán căn nguyên.
Bệnh dại
Bệnh dại hầu hết là tử vong, những người sống sót có thể là do nhiễm virus giống dại. Người thầy thuốc đối diện với vấn đề thường gặp nhất trên lâm sàng là xử trí bệnh nhân bị động vật cắn.
Các bệnh do lậu cầu khuẩn
Ở nam giới, lúc đầu có đái nóng, và dịch trắng hoặc ngà ở ngay đầu. Vài ba ngày sau, đái đau rõ dần và dịch tiết quy đầu vàng sẫm hơn đặc như kem, nhiều và có thể lẫn máu.
Vãng khuẩn huyết và nhiễm trùng huyết do vi khuẩn gram âm
Kháng sinh phải được dùng ngay khi có chẩn đoán, vì điều trị chậm sẽ làm tăng tỷ lệ tử vong. Nói chung cần dùng bằng đường tĩnh mạch để đảm bảo được nồng độ cần thiết.
Bệnh do rickettsia
Tất cả các rickettsia đều bị ức chế bởi tetracyclin hoặc chloramphenicol. Tất cả các trường hợp nhiễm rickettsia giai đoạn đầu đáp ứng ở một vài mức độ với những thuốc này.
Sốt xuất huyết
Những người có triệu chứng giống như những triệu chứng của bệnh sốt xuất huyết và những người đến từ vùng dịch tễ phải được cách ly để chẩn đoán vả điều trị triệu chứng.
Virus và viêm dạ dày ruột
Virus Norwalk và giống Norwalk chiếm khoảng 40% số các trường hợp ỉa chảy do virus đường tiêu hóa gây ra. Bệnh thường lây truyền qua con đường phân miệng.
Các giai đoạn lâm sàng của Giang mai
Giang mai ẩn là thời kỳ yên lặng sau khi các tổn thương thứ phát mất đi và trước khi các triệu chứng giang mai tái phát xuất hiện.
Bệnh do Brucella
Khởi phát thường đột ngột: sốt, rét run, toát mồ hôi nhưng thông thường chỉ khởi phát âm ỉ. Bệnh nhân đến khám sau nhiều tuần có mệt mỏi, sút cân, sốt nhẹ, ra mồ hôi, mệt nhanh dù làm việc nhẹ.
Nhiễm khuẩn da do liên cầu
Đối với những bệnh nhân có dấu hiệu toàn thân nặng hoặc bệnh phân bị viêm tổ chức tế bào da ở mặt, cần dùng kháng sinh đường toàn thân.
Những hội chứng do virus epstein barr
Các virus herpes có khả năng làm biến đổi tế bào, khi nuôi cấy trong tổ chức và đi kèm với các bệnh ác tính như virus Epstein Barr gây u lympho Burkitt.
Bệnh bại liệt
Suy hô hấp là hậu quả của liệt cơ hô hấp, tắc nghẽn đường hô hấp do tổn thương các nhân của dây thần kinh sọ, hoặc ổ thương trung hô hấp.
Những tác nhân gây bệnh giống virus có thời gian tiềm tàng kéo dài
Chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu mà chỉ có phòng bệnh bằng cách tránh lây nhiễm từ tổ chức não bị bệnh, điện cực, dụng cụ phẫu thuật thần kinh hoặc tránh ghép giác mạc.