- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh truyền nhiễm
- Các bệnh do Mycobacteria không điển hình, không phải lao
Các bệnh do Mycobacteria không điển hình, không phải lao
Các thuốc có tác dụng trong điều trị là rifabutin, azithromycin, clarithromycin, và ethambutol, Amikacin và ciprofloxacin có tác dụng trên thí nghiệm nhưng số liệu về lâm sàng còn chưa đủ để kết luận.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Khoảng 10% trường hợp nhiễm khuẩn do mycobacteria trên lâm sàng là do nhóm không điển hình mà không do vi khuẩn lao điển hình (Mycobacte¬rium tuberculosis). Loại này hay gặp nhất ở người nhiễm HIV giai đoạn tiến triển. Nhóm này có những đặc điểm sinh học riêng, có mặt trong môi trường ở khắp mọi nơi, không lây từ người qua người và thường thấy kháng thuốc chống lao.
Nhiễm khuẩn lan rộng do M. avium
Mycobacterium avium có thể cư trú mà không gây triệu chứng, hoặc gây ra nhiều dạng bệnh khác nhau, từ tổn thương dạng đồng xu đến viêm phế quản ở người có bệnh phổi mạn tính, và cả bệnh phổi xâm lấn, thường là dạng hang ở bệnh nhân có bệnh phổi từ trước. Loại vi khuẩn này là nguyên nhân phổ biến của thể lan toả ở người nhiễm HIV giai đoạn muộn, khi tế bào CD4 < 50 - 100/mm3. Triệu chứng chủ yếu là sốt dai dẳng và sút cân. Vi khuẩn có thể cấy được từ nhiều nơi trong cơ thể như máu, gan, hạch, tủy xương. Cấy máu thường hay được dùng nhất để chẩn đoán và có độ nhậy cao tới 98%.
Các thuốc có tác dụng trong điều trị là rifabutin, azithromycin, clarithromycin, và ethambutol. Amikacin và ciprofloxacin có tác dụng trên thí nghiệm nhưng số liệu về lâm sàng còn chưa đủ để kết luận. Không được dùng liệu pháp một thuốc vì vi khuẩn kháng thuốc rất nhanh. Clarithromycin 500mg uống ngày 2 lần cùng ethambutol 15mg/kg, ngày uống 1 lần, có thể cả rifabutin 300mg, uống 1 lần hàng ngày là cách điều trị hay dùng nhất. Có thể dùng azithromycin 500mg uống 1 lần thay cho clarithromycin. Còn chưa đủ lượng thông tin để có khuyến nghị cách điều trị thứ 2 khi bệnh nhân không chịu được macrolid hoặc vi khuẩn kháng macrolid, nhưng vẫn phối hợp 2 - 3 thuốc trong điều trị.
Nhiều thử nghiệm lãm sàng đã cho thấy hóa trị liệu dự phòng có thể kéo dài thời gian sống của bệnh nhân nhiễm HIV số lượng CD4 < 50mm3. Cần phòng suốt đời. Dù chưa có nhiều số liệu, nhưng có lẽ có thể ngừng điều trị dự phòng nếu bệnh nhân nhiễm HIV được điều trị bằng các thuốc kháng virus và có CD4 tăng lên > 50 - 100/mm3 một cách thường xuyên. Có thể dùng một thuốc như clarithromycin 500mg hàng ngày, hoặc azithromycin 1200 mg hàng tuần; hay rifabutin 300 mg hàng ngày, nhưng clarithromycin và azithromycin tác dụng tốt hơn rifabutin nên hay được dùng hơn. Nếu đang điều trị dự phòng bằng macrolid mà bệnh vẫn lan rộng thì cần xem xét khả năng kháng thuốc và thường là phải phối hợp thêm rifabutin hoặc ethambutol, dù chưa thể nói thuốc nào hiệu quả hơn. Việc ngừng hay tiếp tục dùng macrolid vẫn còn đang được bàn cãi.
Nhiễm khuẩn tại phổi
Vi khuẩn M. avium gây viêm nhiễm mạn tính tại phổi tiến triển chậm ở người bị một bệnh phổi từ trước, giống lao ở người có tình trạng miễn dịch bình thường.
Điều trị nhiễm khuẩn này hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm và phải phối hợp nhiều thuốc. Thường dùng rifampin 600mg hàng ngày phối hợp với ethambutol từ 15 - 25mg/kg/ngày và streptomycin tiêm bắp 1g, 3 - 5 lần mỗi tuần, trong thời gian 4 - 6 tháng. Vai trò của rifabutin, fluoroquinolon và macrolid là chưa rõ, nhưng dựa vào kết quả điều trị ở người bị suy giảm miễn dịch thì có thể suy ra là chúng có tác dụng hơn các thuốc vừa nêu trên, đặc biệt là clarithomycin.
Mycobacterium kansasii có thể gây bệnh giống lao trên lâm sàng, nhưng bệnh tiến triển chậm hơn. Đa số gặp ở người có bệnh phổi từ trước, nhưng có đến 40% bệnh nhân không có bệnh phổi trước, về vi khuẩn học, M. kansasii tương đối giống vi khuẩn lao, cả về tính nhậy cảm với các thuốc. Vì vậy thường điều trị bằng rifampin - ethambutol - isoniazid trong hai năm (hoặc một năm kể từ khi xét nghiệm đờm âm tính). Một số loại ít gây bệnh ở phổi hơn, như M. xenopi; M. szulgai, M. gordonae. Tính nhậy cảm với thuốc của chúng rất thay đổi, nên việc điều trị thường phải dựa vậo kết quả xét nghiệm kháng sinh đồ. M. fortuitum và M. chelonei cũng có thể gây viêm phổi.
Viêm hạch (bệnh tràng nhạc)
Đa số tràng nhạc ở người lớn là do vi khuẩn lao và có thể là một biểu hiện của bệnh lan toả. Ở trẻ em, đa số viêm hạch là do các chủng không điển hình, trong đó hay gặp nhất là M., scrofulaceum và MAC, còn các vi khuẩn khác ít gặp hơn. Khác với bệnh do vi khuẩn lao điển hình cần điều trị 9 tháng bằng thuốc, ở đây có thể điều trị bằng cắt bỏ hạch mà không cần dùng thuốc chống lao.
Viêm da và mô mềm
Viêm da và mô mềm như áp xe, viêm khớp, viêm tủy xương có thể do vi khuẩn đến trực tiếp hoặc qua đường máu hay khi phẫu thuật. M. chelonei và M.fortuitum là hay gặp nhất. Đa số gặp ở đầu chi, lúc đầu dưới dạng cục rồi thành áp xe và vết loét. Vi khuẩn thường kháng với các thuốc chống lao thông dụng nhưng lại có thể nhậy với các loại khác như erythromycin, doxycyclin, amikacin, cefoxitin, sulfamid, imipenem và ciprofloxacin. Thường phối hợp thuốc với cắt lọc. Lúc đầu dùng đường tiêm vài tuần rồi chuyển sang uống các thuốc mà vi khuẩn không kháng. Thời gian điều trị cần kéo dài nhiều tháng kể từ khi tổn thương đã lành.
Nhiễm khuẩn do M. marinum (u hạt bể bơi) thường bắt đầu bằng một nốt ở da sau khi tắm nước bể bơi không được khử trùng bằng chlorin. Tổn thương đáp ứng với điều trị bằng doxycyclin, minocyclin và co-trimoxazol.
M.ulcerans gây loét Buruli chủ yếu gặp ở châu Phi, châu úc và gây các vết loét rộng. Điều trị bằng cắt lọc và ghép da.
Bài viết cùng chuyên mục
Hội chứng sốc nhiễm độc tụ cầu
Đặc điểm của hội chứng sốc nhiễm độc là sốt cao đột ngột, nôn, tiêu chảy kèm theo đau họng, mệt lử và đau đầu. Trong những trường hợp nặng có thể có các biểu hiện như hạ huyết áp, suy thận, suy tim.
Những hội chứng do virus epstein barr
Các virus herpes có khả năng làm biến đổi tế bào, khi nuôi cấy trong tổ chức và đi kèm với các bệnh ác tính như virus Epstein Barr gây u lympho Burkitt.
Viêm tủy xương do tụ cầu vàng
Có thể là nhiễm khuẩn cấp tính với cầc triệu chứng, khu trú và tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc toàn thân. Nhưng cũng có thể tiến triển âm ỉ, chỉ thấy đau mơ hồ.
Các loại bệnh do Campylobacte gây ra
C. fetus gây bệnh toàn thân, thậm chí có thể gây tử vong như nhiễm khuẩn huyết tiên phát, viêm nội tâm mạc, viêm màng não, áp xe khu trú.
Nhiễm khuẩn do vi khuẩn lao
Vì khi bắt đầu điều trị thường chưa có kết quả kháng sinh đồ, nên thường phải dựa vào độ mạnh của thuốc hoặc số liệu về tỷ lệ kháng thuốc trong cộng đồng hoặc trong quần thể bệnh nhân.
Nhiễm khuẩn do các cầu khuẩn ruột
Vì các kháng sinh này đều không phải là loại kháng sinh diệt khuẩn đối với cầu khuẩn ruột, nên trong trường hợp viêm nội tâm mạc hoặc nhiễm khuẩn nặng khác.
Sốt xuất huyết
Những người có triệu chứng giống như những triệu chứng của bệnh sốt xuất huyết và những người đến từ vùng dịch tễ phải được cách ly để chẩn đoán vả điều trị triệu chứng.
Nhiễm Parovirus
Việc chẩn đoán dựa vào lâm sàng, nhưng có thể xác định bằng tăng nồng độ kháng thể kháng parvovirus loại IGM trong huyết thanh. Sốt tinh hồng nhiệt rất giống bệnh do parvovirus.
Bệnh do Leptospira
Nước tiểu có thể có sắc tố mật, protein, cặn và hồng cầu. Đái ít không phải là ít gặp và trong các trường hợp nặng tăng urê máu có thể xuất hiện.
Viêm màng não do não mô cầu
Sốt cao, rét run, đau đầu, đau lưng, đau bụng, đau đầu chi, buồn nôn và nôn đều có thể gặp. Khi bệnh nặng, bệnh nhân nhanh chóng bị lú lẫn, hoảng loạn, co giật và hôn mê.
Bệnh do các loài vi khuẩn Bartonella
Bệnh u mạch lan toả do trực khuẩn, là một trong những bệnh quan trọng do vi khuẩn Bartonella gây ra, Sốt chiến hào là bệnh sốt tái phát do rận truyền, tự khỏi do B. quintana gây ra.
Nhiễm khuẩn da do liên cầu
Đối với những bệnh nhân có dấu hiệu toàn thân nặng hoặc bệnh phân bị viêm tổ chức tế bào da ở mặt, cần dùng kháng sinh đường toàn thân.
Tạo miễn dịch chủ động chống lại các bệnh nhiễm khuẩn
Nhiều loại vaccin được khuyên dùng cho người lớn tùy thuộc theo tình trạng tiêm phòng trước đó của mỗi người và những nguy cơ phoi nhiễm với một số bệnh.
Những tác nhân gây bệnh giống virus có thời gian tiềm tàng kéo dài
Chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu mà chỉ có phòng bệnh bằng cách tránh lây nhiễm từ tổ chức não bị bệnh, điện cực, dụng cụ phẫu thuật thần kinh hoặc tránh ghép giác mạc.
Viêm não đám rối màng mạch tăng lympho bào
Triệu chứng biểu hiện bằng 2 giai đoạn. Giai đoạn tiền triệu biểu hiện bằng sốt, rét run, đau cơ, ho và nôn. Giai đoạn màng não biểu hiện đau đầu, buồn nôn, nôn và ngủ lịm.
Virus herpes typ 1 và 2
Các virus herpes typ 1 và 2 chủ yếu gây tổn thương ở vùng miệng tiếp đến là vùng sinh dục. Tỷ lệ huyết thanh dương tính của cả hai nhóm này tăng theo lửa tuổi, riêng đối với typ 2 tăng theo hoạt động tình dục.
Bệnh than
Khi bệnh biểu hiện trên da, thường thấy các ban đỏ tại vùng bị thương và nhanh chóng chuyển sang các mụn phỏng màu hồng rồi màu đen ở giữa. Vùng xung quanh phù nề và nổi mụn phỏng.
Viêm não do arbovirus
Nguyên nhân hàng đầu của viêm não arbovirus là viêm não California và viêm não St. Louis. Mầm bệnh tồn tại trong tự nhiên là ở những động vật có vú nhỏ đặc trưng và một số loại chim.
Các bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn kỵ khí
Dưới đây sẽ điểm qua các bệnh nhiễm khuẩn chủ yếu do các vi khuẩn kỵ khí gây ra. Điều trị chung cho các bệnh này bao gồm mổ thăm dò ngoại khoa, cắt lọc đủ rộng và dùng kháng sinh.
Sốt do ve
Ở Mỹ, trong 10 năm có 67 trường hợp bị bệnh được phát hiện, phần lớn trong số đó là đi du lịch về từ châu Phi, gồm cả Somalia. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, huyết thanh lọc và kỹ thuật PCR.
Sốt phát ban do mò truyền
Sốt phát ban do mò truyền bởi con Orientia tsutsugamushi. Đây là sinh vật ký sinh chủ yếu ở loài gặm nhâm truyền bệnh qua các con mò ở vùng có dịch tễ được trình bày ở trên.
Bệnh do Ehrlichiae
Ehrlichiae bạch cầu hạt ở người gần đây xuất hiện nhiều hơn. Phân bố địa lý của bệnh giống bệnh Lyme, mặc dù ranh giới phân vùng của bệnh chưa được xác định đầy đủ.
Bệnh xoắn khuẩn không lây qua đường tình dục
Ghẻ cóc là một bệnh truyền nhiễm phân bổ chủ yếu ở các vùng nhiệt đới, do T. pallidum dưới nhóm pertenue gây nên. Đặc trưng của bệnh là các tổn thưong u hạt ở da, niêm mạc và xương.
Ngộ độc Clostridium botulinum
Đây là bệnh ngộ độc thức ăn do ăn phải độc tố có sẵn thường do các typ A, B hoặc E của vi khuẩn Clostridium botulinum, đây là một trực khuẩn có nha bào, kỵ khí tuyệt đối, có ở khắp nơi trong đất.
Sốt do ve Colorado
Cần phải chẩn đoán phân biệt bệnh sốt do ve Colorado với các bệnh: cúm, nhiễm Rickettsia rickettsii, vả những bệnh sốt có giảm bạch cầu cấp tính khác.