Bệnh xoắn khuẩn không lây qua đường tình dục

2016-05-20 12:52 PM

Ghẻ cóc là một bệnh truyền nhiễm phân bổ chủ yếu ở các vùng nhiệt đới, do T. pallidum dưới nhóm pertenue gây nên. Đặc trưng của bệnh là các tổn thưong u hạt ở da, niêm mạc và xương.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Một loạt các bệnh nhiễm khuẩn ngoài giang mai lưu hành ở nhiều vùng nhiệt đới. Các bệnh này khác với nhiễm T. pallidum do không lây qua đường tình dục, tỷ lệ mới nhiễm bệnh tương đối cao ở những vùng địa lý nhất định và ở trẻ em, xu hướng gây bệnh phủ tạng ít trầm trọng hơn. Cũng giống như giang mai, vi khuẩn có thể tìm thấy trong tổn thương lây nhiễm qua soi hiển vi trong trường tối hoặc miễn dịch huỳnh quang nhưng không thể nuôi cấy trong các môi trường nhận tạo; các xét nghiệm huyết thanh giang mai dương tính, kể cả xét nghiệm mới như CAPTIA Syph G; các bệnh này có các giai đoạn tiên phát, thứ phát, đôi khi tam phát; và penicillin là kháng sinh lựa chọn. Có bằng chứng cho thấy nhiễm các vi khuẩn này có thể phần nào ngăn ngừa giang mai và ngược lại. Điều trị penicillin liều lượng thích hợp cho giang mai tiên phát (như 2,4 triệu đơn vị benzathin penicillin G tiêm bắp) nói chung có tác dụng điều trị trong mọi giai đoạn của nhiễm xoắn khuẩn không lây qua đường tình dục. Trong các trường hợp dị ứng với penicillin, tetracyclin thường là liệu pháp điều trị thay thế.

Bệnh cóc ghẻ (frambesia)

Ghẻ cóc là một bệnh truyền nhiễm phân bổ chủ yếu ở các vùng nhiệt đới, do T. pallidum dưới nhóm pertenue gây nên. Đặc trưng của bệnh là các tổn thưong u hạt ở da, niêm mạc và xương. Ghẻ cóc ít khi dẫn tới tử vong, mặc dù nếu không được điều trị, bệnh có thể dẫn tới thương tật và biến dạng mạn tính. Ghẻ cóc lây truyền qua tiếp xúc ngoài tình dục, thường trong thời kỳ thơ ấu, mặc dù sự lây truyền có thể xẩy ra ở bất cứ lứa tuổi nào. “Nốt ghẻ mẹ” - nốt sẩn không đau hóa loét sau đó, xuất hiện 3 - 4 tuần sau tiếp xúc. Sưng hạch tại chỗ thường xuất hiện kèm theo. Sau 6 - 12 tuần, các tổn thương thứ phát tương tự xuất hiện và tồn tại kéo dài vài tháng tới vài năm. Các tổn thương loét kèm theo đau ở lòng bàn tay bàn chân thường có và được gọi là “ghẻ cua”. Các tổn thương gumma muộn có thể xuất hiện, cùng với sự phá hủy tổ chức kèm theo trên nhiều vùng rộng lớn của da và tổ chức dưới da. Các ảnh hưởng muộn của ghẻ cóc, với biến đổi xương, ngắn các ngón và co cứng, có thể bị nhầm lẫn với các biến đổi tương tự xuất hiện trong bệnh phong. Xâm nhiễm hệ thần kinh trung ương, tim mạch hoặc các nội tạng khác hiếm gặp.

Pinta

Pinta là bệnh nhiễm xoắn khuẩn lay ngoài đường tình dục do Treponema carateum gây ra. Bệnh xuất hiện có tính địa phương ở các vùng nông thôn châu Mỹ Latinh, đặc biệt ở Mexico, Colombia và Cuba, và một số nơi ở Thái Bình Dương. Một nốt sẩn đỏ không loét tiên phát lan truyền dần thành một mảng sẩn đóng vẩy chuyển mầu (xám, tím, đen). Các tổn thương thứ phát trông giống như tổn thương tiên phát xuất hiện trong vòng một năm sau đó. Các tổn thương này xuất hiện lần lượt, tổn thương mới lên các tổn thương cũ; thường gặp nhất ở các chi; sau đó chuyển sang teo da và mất sắc tố. Một số trường hợp có biến đổi sắc tố và các mảng teo trên da lòng bàn chân và lòng bàn tay, kèm tăng sừng hóa hoặc không, không thể phân biệt được với “ghẻ cua”. Rất hiếm khi xâm nhiễm hệ thần kinh trung ương hoặc tim mạch, nếu có thường ở giai đoạn cuối của bệnh.

Giang mai lưu hành địa phương

Giang mai lưu hành địa phương là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính hoặc mạn tính do một loại vi khuẩn không phân biệt với T. pallidum phân loài endemicum gây nên. Bệnh được thông báo ở một số nước, đặc biệt là vùng Địa Trung Hải, thường với tên địa phương: Bejel ở Syria, Arập Xêut và Irac; và Dichuchwa, Njovera và Siti ở châu Phi. Bệnh cũng xuất hiện ở Đông Nam Á. Các thể bệnh địa phương có các đặc điểm khác biệt. Các tổn thương loét tiết dịch trên da hoặc niêm mạc miệng hay mũi họng là các biểu hiện thường gặp nhất. Sưng hạch lympho toàn thân và các tổn thương thứ phát và tam phát ở xương và da cũng thường gặp. Đau sâu trong cẳng chân chỉ điểm cho viêm màng xương hoặc viêm tủy xương. Xâm nhiễm tim mạch và hệ thần kinh trung ương hiếm gặp.

Bài viết cùng chuyên mục

Vãng khuẩn huyết do Salmonella

Đôi khi nhiễm khuẩn do salmonella có thể biểu hiện dưới dạng sốt kéo dài hoặc sốt tái phát có kèm vi khuẩn trong máu và có các ổ nhiễm khuẩn ở xương, khớp.

Sốt phát ban do mò truyền

Sốt phát ban do mò truyền bởi con Orientia tsutsugamushi. Đây là sinh vật ký sinh chủ yếu ở loài gặm nhâm truyền bệnh qua các con mò ở vùng có dịch tễ được trình bày ở trên.

Sốt Q

Viêm nội tâm mạc ít gặp nhưng lại là thể nặng của nhiễm Coxiella và liên quan với tình trạng tổn thương miễn dịch, việc sống ở vùng thành thị, uống sữa tươi.

Nhiễm Adenovirus

Những bệnh nhân ghép gan bị nhiễm virus có xu hướng phát triển viêm gan typ 5, còn những người ghép tủy xương và ghép thận có xu hướng viêm phổi phát triển hoặc viêm bàng quang xuất huyết.

Viêm màng não do phế cầu

Các chủng kháng penicillin lại thường có kháng chéo cả với cephalosporin thế hệ 3. Kháng sinh đồ là hết sức cần thiết trong những trường hợp như vậy.

Hoại tử sinh hơi

Bệnh thường khởi phát đột ngột, đau tăng nhanh tại vùng bị bệnh, hạ huyết áp, nhịp tim nhanh, sốt không tương xứng với mức độ nặng.

Ỉa chảy nhiễm khuẩn cấp tính

Điều trị chủ yếu là bù nước và điện giải, trong một vài trường hợp có thể phải điều trị sốc mất nước và hỗ trợ hô hấp. Nói chung, phân lớn các trường hợp ỉa chảy cấp tính đều tự khỏi.

Các bệnh do Mycobacteria không điển hình, không phải lao

Các thuốc có tác dụng trong điều trị là rifabutin, azithromycin, clarithromycin, và ethambutol, Amikacin và ciprofloxacin có tác dụng trên thí nghiệm nhưng số liệu về lâm sàng còn chưa đủ để kết luận.

Nhiễm tụ cầu khuẩn huyết

Trường hợp bệnh nhân có nguy cơ cao như người tiểu đường, người có suy giảm miễn dịch hoặc nghi ngờ có viêm nội tâm mạc, người ta khuyên nên dùng dài ngày hơn.

Nhiễm virus Poxvirus

Vaccin bệnh đậu bò có khả năng loại trừ một phần bệnh đậu mùa. Vaccin thông thường chỉ được dùng cho người ở phòng xét nghiệm vì người này phải tiếp xúc với virus.

Ngộ độc Clostridium botulinum

Đây là bệnh ngộ độc thức ăn do ăn phải độc tố có sẵn thường do các typ A, B hoặc E của vi khuẩn Clostridium botulinum, đây là một trực khuẩn có nha bào, kỵ khí tuyệt đối, có ở khắp nơi trong đất.

Bệnh do Ehrlichiae

Ehrlichiae bạch cầu hạt ở người gần đây xuất hiện nhiều hơn. Phân bố địa lý của bệnh giống bệnh Lyme, mặc dù ranh giới phân vùng của bệnh chưa được xác định đầy đủ.

Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương

Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương có thể được phân thành vài thể bệnh, thông thường có thể dễ phân biệt các thể bệnh với nhau nhờ xét nghiệm dịch não tủy, đây là bước đầu tiên để chẩn đoán căn nguyên.

Bệnh u hạt lympho hoa liễu

Ớ nam giới, tổn thương ban đầu dạng mụn phỏng hoặc nốt loét ở bộ phận sinh dục ngoài, nó biến đi nhanh chóng nên thường bị bỏ qua, không được bệnh nhân để ý.

Vãng khuẩn huyết và nhiễm trùng huyết do vi khuẩn gram âm

Kháng sinh phải được dùng ngay khi có chẩn đoán, vì điều trị chậm sẽ làm tăng tỷ lệ tử vong. Nói chung cần dùng bằng đường tĩnh mạch để đảm bảo được nồng độ cần thiết.

Viêm dạ dày ruột do Escherichia Coli

Kháng sinh không có tác dụng, điều trị nâng đỡ là chủ yếu. Khi có tiêu chảy và hội chứng urê huyết - huyết tán đồng thời, cần nghĩ tới E. coli gây xuất huyết và phát hiện chúng.

Tạo miễn dịch khuyến cáo cho những người du lịch

Khi các đối tượng yêu cầu các bác sĩ cho biết thông tin và tiêm vaccin để đi du lịch, toàn bộ lịch tiêm chủng của họ nên được xem xét và cập nhật.

Nhiễm khuẩn do Moraxeila catarrhalis

Vi khuẩn này thường cư trú tại đường hô hấp, nên phân biệt giữa gây bệnh và bình thường là rất khó. Khi phân lập được đa số là vi khuẩn này, cần điều trị tiêu diệt chúng.

Bệnh đậu do rickettsia

Bạch cầu giảm, nồng độ kháng thể tăng bằng phản ứng kết hợp bổ thể hoặc dùng phản ứng huỳnh quang gián tiếp sử dụng globulin kháng rickettsia liên hợp.

Các loại bệnh do Campylobacte gây ra

C. fetus gây bệnh toàn thân, thậm chí có thể gây tử vong như nhiễm khuẩn huyết tiên phát, viêm nội tâm mạc, viêm màng não, áp xe khu trú.

Hội chứng Kawasaki

Biến chứng chính là viêm động mạch vành, xảy ra ở 20% số trường hợp không điều trị. Những yếu tố liên quan tới phát triển phình động mạch vành là tăng bạch cầu, tăng protein phản ứng C.

Viêm màng não do lao

Ngay cả khi cấy cho kết quả âm tính cũng cần điều trị đủ liệu trình nếu lâm sàng có dấu hiệu gợi ý là viêm màng não.

Viêm phổi do phế cầu

Những bệnh nhân bị bệnh nặng hoặc có các bệnh khác kèm theo cần điều trị nội trú bằng thuốc tiêm, penicillin G, 2 triệu đơn vị môi lần, ngày 6 lần.

Nhiễm khuẩn do Hemophilus influenzae

Ớ người lớn ít gặp chủng hemophilus tiết men β lactamase hơn ở trẻ em. Có thể điều trị với người lớn bị viêm xoang, viêm tai hay nhiễm khuẩn đường hô hấp bằng amoxicillin 500mg.

Bệnh tả

Điều trị bằng bù dịch khi bệnh nhẹ hoặc vừa thì uống dịch cũng đủ để làm giảm mạnh tỷ lệ tử vong ở các nước đang phát triển. Có thể tự pha lấy dịch.