Bệnh sởi

2016-03-03 07:26 PM

Ban thường xuất hiện 4 ngày sau khi bị bệnh, lúc đầu mọc ở mặt và sau tai. Tổn thương ban đầu là những nốt sẩn như đầu đinh ghim sau hợp lại tạo thành dạng dát sẩn màu đỏ gạch, không đều.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán

Thời gian ủ bệnh từ 10 - 14 ngày ở người chưa dùng vaccin.

Tiền triệu: sốt, sổ mũi, ho, viêm kết mạc, sợ ánh sáng, hạt Koplik.

Ban: màu đỏ gạch, dạng dát sẩn, không đều, xuất hiện 3 - 4 ngày sau biểu hiện tiền triệu, bắt đầu mọc ở mặt, mọc dần xuống dưới và ra ngoài gan bàn chân và lòng bàn tay mọc cuối cùng.

Giảm bạch cầu.

Nhận định chung

Bệnh sởi là bệnh nhiễm virus toàn thân cấp tính (paramyxo virus), lây truyền theo đường hô hấp do hít phải giọt nhỏ nhiễm virus. Đây là loại virus có ái tính với bạch cầu đơn nhân và là nguyên nhân gây bệnh và gây tử vong cho trẻ em trên toàn thế giới. Sau mắc bệnh sẽ tạo được miễn dịch bền vững, Bệnh lây truyền mạnh nhất vào giai đoạn trước khi phát ban và giai đoạn viêm long nhưng vẫn còn lây khi ban mọc. Gần đây, có một số vụ dịch lẻ tẻ ở người lớn, thanh niên và trẻ em trước tuổi đến trường chưa được tiêm chủng, ở những vùng thành thị có mật độ dân số cao làm thay đổi những khuyến cáo về phòng bệnh.

Các triệu chứng và dấu hiệu

Thường sốt cao 40 - 40,6°c, trong thời kỳ tiền triệu và giai đoạn đầu của phát ban (khoảng 5 - 7 ngày). Bệnh nhân có thể mệt mỏi nhiều, sổ mũi, ngạt mũi, hắt hơi và đau họng, giống như nhiễm khuẩn đường hô hấp trên. Bệnh nhân ho kéo dài, không có đờm. Viêm kết mạc biểu hiện bằng kết mạc đỏ, sưng, sợ ánh sáng và xuất tiết.

Hạt Koplik là biểu hiện đặc trưng của bệnh sởi. Những hạt này xuất hiện khoảng 2 ngày trước khi phát ban, tồn tại từ 1- 4 ngày như là hạt nhỏ (như tinh thể muối nhỏ trên mặt bàn) trên nền niêm mạc đỏ của niêm mạc má, thường ở nếp kết mạc trong niêm mạc âm đạo. Những dấu hiệu khác là: họng đỏ, trên amidan có dịch tiết màu vàng, đầu lưỡi và rìa lưỡi đỏ, hạch to vừa ở toàn thân, trong một số ít trường hợp có lách to.

Ban thường xuất hiện 4 ngày sau khi bị bệnh, lúc đầu mọc ở mặt và sau tai. Tổn thương ban đầu là những nốt sẩn như đầu đinh ghim sau hợp lại tạo thành dạng dát sẩn màu đỏ gạch, không đều. Trong những trường hợp nặng, ban hợp lại tạo thành vùng da đỏ gần như đồng đều ở một số vùng của cơ thể. Ban mọc tiếp ở thân mình rồi đến chân tay, kể cả gan bàn chân và lòng bàn tay. Ban sẽ nhạt dần theo thứ tự mọc. Tăng sắc tố  da còn lại sau khi ban bay đi ở những trường hợp nặng và người da trắng. Có thể có bong vảy nhẹ sau đó.

Sởi không điển hình là một hội chứng xảy ra ở người lớn đã dùng vaccin sởi bất hoạt (loại vaccin được dùng trong những năm 1963 - 1967) hoặc những người được dùng vaccin sởi sống trước 12 tháng tuổi, dẫn đến kết quả là tăng mẫn cảm hơn là tác dụng tạo miễn dịch bảo vệ. Sau này khi nhiễm virus sởi hoang dại, những người này có thể bị tử vong do sốt cao, ban bất thường (sẩn, xuất huyết) mà không có hạt Koplik, đau đầu, đau khớp, viêm gan, thâm nhiễm khoảng kẽ hoặc nốt trong một số ít trường hợp có tràn dịch màng phổi.

Các dấu hiệu cận lâm sàng

Giảm bạch cầu thường xuất hiện, trừ khi có bội nhiễm vi khuẩn thứ phát. Protein niệu thường gặp. Mặc dù rất khó khăn về mặt kỹ thuật nhưng có thể nuôi cấy được virus từ máu và dịch rửa của mũi họng. Kháng thể ức chế ngưng kết hồng cầu trong máu tăng gấp 4 lần là rất có giá trị trong chẩn đoán.

Các biến chứng

Các biến chứng hệ thần kinh trung ương

Viêm não xảy ra trong khoảng 0,05 - 0,1% các trường hợp. Biến chứng này xuất hiện 3 - 7 ngày sau khi phát ban, biểu hiện bằng: nôn, co giật, hôn mê và nhiều dấu hiệu thần kinh nặng nề. Điều trị chủ yếu là điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Tổn thương hủy myelin là nổi bật. Không phân lập được virus ở hệ thần kinh trung ương mặc dù hủy myelin nổi bật. Tỉ lệ tử vong là đáng kể (10 - 20%), nhiều bệnh nhân để lại di chứng thần kinh.

Viêm toàn bộ não xơ hóa bán cấp (Subacute Sclerosing Panencephalitis - SSPE) là biến chứng xuất hiện rât muộn của hệ thần kinh trung ương, virus sởi gây bệnh như một "virus chậm" làm thoái hóa hệ thần kinh trung ương nhiều năm sau khi nhiễm virus. SSPE hiếm gặp (tỷ lệ: 1/100.000 trường hợp bị sởi) và thường xảy ra hơn khi bị bệnh sởi ở lứa tuổi nhỏ, ở nam giới và những người sống ở nông thôn.

Viêm não tiến triển cấp tính (viêm não do sởi bán cấp) biểu hiện bằng co giật, khiếm khuyết về mặt thần kinh, thường có trạng thái sững sờ và tử vong, có thể xảy ra ở những người suy giảm miễn dịch; virus sởi có cơ hội xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương. Điều trị chủ yếu là hỗ trợ, ngừng dùng hóa trị liệu gây suy giảm miễn dịch khi có thể. Kết quả điều trị thành công của interferon và ribavirin là rất khác nhau.

Biến chứng đường hô hấp

Ớ giai đoạn đầu của bệnh, viêm phế quản - phổi hoặc viêm tiểu phế quản do virus sởi lên tới 5% dẫn đến khó thở nặng. Viêm phổi xảy ra có hoặc không có ban nhanh bay gặp ở những trường hợp sởi không điển hình.

Bội nhiễm vi khuẩn thứ phát

Bội nhiễm vi khuẩn thứ phát thường xảy ra ngay sau khi bị sởi, đặc biệt là viêm hạch cổ, viêm tai giữa và viêm phổi; gặp ở khoảng 15% bệnh nhân.

Bệnh lao

Sởi tạm thời gây mất phản ứng da với tuberculin. Sởi có thể gây tệ hại hơn ở những bệnh nhân lao

Phòng bệnh

Ở Mỹ, khuyến cáo trẻ em nên được dùng vaccin lần đầu khi 12 - 15 tháng tuổi và lần thứ 2 khi 4 - 6 tuổi trước khi đi học. Đối với học sinh đã tốt nghiệp phổ thông trung học và nhân viên y tế bắt đầu lám việc phải được dùng vaccin theo bảng chỉ dẫn trên hoặc phải có bằng chứng miễn dịch của bệnh trong huyết thanh nếu họ sinh sau năm 1956. Còn những người sinh trước năm 1957 thì miễn dịch cộng đồng có thể có. Nhân viên y tế nên được kiểm tra và dùng vaccin nếu cần thiết ở bất cứ tuổi nào.

Việc kiểm soát sự bùng phát là tương tự nhau. Nếu dịch bùng nổ ở trẻ em dưới 1 tuổi, trước tuổi đến trường thì vaccin lần đầu được dùng vào tháng thứ 6 và nhắc lại vào tháng thứ 15. Khi dịch xảy ra ở những trung tâm điều trị ban ngày, trường đại học, cao đẳng thì việc tái dùng vaccin được áp dụng cho tất cả các đối tượng, đặc biệt là học sinh, sinh viên và anh em của họ được sinh sau năm 1956, những người này được coi là chưa có miễn dịch theo xác định ở phần trên. Những nhân viên y tế nhạy cảm đã tiếp xúc với mầm bệnh phải được cách ly với bệnh nhân từ ngày thứ 5 - 21 sau khi tiếp xúc với mầm bệnh, bất kể họ đã được dùng vaccin hoặc globulin miễn dịch hay chưa. Nếu bị sởi, những nhân viên này phải cách ly với bệnh nhân tới ngày thứ 7 sau khi mọc ban.

Khi những người nhạy cảm (dễ mắc bệnh) tiếp xúc với người bị bệnh sởi, dùng vaccin virus sống có thể phòng bệnh nếu dùng trong vòng 5 ngày kể từ khi tiếp xúc. Điều này hiếm khi thực hiện được trong một gia đình. Sau đó, dùng gamma globulin (0,25 ml/kg) đường tiêm để ngăn cản biểu hiện trên lâm sàng của bệnh. Ba tháng sau phải tạo miễn dịch chủ động bằng dùng vaccin sởi sống, cần phải dùng vaccin cho tất cả những người có hệ miễn dịch bình thường được sinh ra sau năm 1956 đi đến các nước đang phát triển.

Phụ nữ có thai và những người suy giảm miễn dịch không được dùng vaccin sởi trừ hai trường hợp ngoại lệ. Trường hợp thứ nhất là những người nhiễm HIV chưa có triệu chứng, không có biểu hiện tác dụng phụ của vaccin. Trường hợp thứ hai là trẻ em bị nhiễm HIV, nếu tiêm vaccin sẽ có nhiều khả năng sống sót hơn sau khí bị bệnh sởi. Ở những nước đang phát triển, dùng vaccin “nồng độ cao” sẽ làm cho tỷ lệ tử vong muộn cao hơn. Globulin miễn dịch cần được dùng cho tất cả những người nhiễm HIV có tiếp xúc với người bệnh sởi để dự phòng.

Điều trị

Biện pháp chung

Bệnh nhân phải được cách ly một tuần sau khi phát ban và nghỉ ngơi tại giường cho tới khi hết sốt. Điều trị triệu chứng khi cần thiết. Uống vitamin A 400 000 đợn vị/ ngày (tác dụng duy trì niêm mạc đường tiêu hóa, hô hấp và có thể làm tăng cường miễn dịch) làm giảm tỷ lệ tử vong và biến chứng ở trẻ em.

Điều trị biến chứng

Dùng kháng sinh thích hợp để điều trị bội nhiễm vi khuẩn thứ phát. Điều trị triệu chứng đối với viêm não sau sởi như viêm toàn bộ não xơ hóa bán cấp.

Tiên lượng

Tỷ lệ tử vong của sởi ở trẻ nhỏ trong vụ dịch sởi gần đây ở California là 0,6%. Tại các nước đang phát triển, tỷ lệ tử vong là 10%. Ở Mỹ, tử vong do sởi chủ yếu là vì viêm não (chiếm 15% tỷ lệ tử vong) và viêm phổi do bội nhiễm vi khuẩn. Nguyên nhân gây tử vong ở những nước đang phát triển chủ yếu là do ỉa chảy và bệnh lý ruột do mất protein.

Bài viết cùng chuyên mục

Tạo miễn dịch khuyến cáo cho những người du lịch

Khi các đối tượng yêu cầu các bác sĩ cho biết thông tin và tiêm vaccin để đi du lịch, toàn bộ lịch tiêm chủng của họ nên được xem xét và cập nhật.

Nhiễm khuẩn do các cầu khuẩn ruột

Vì các kháng sinh này đều không phải là loại kháng sinh diệt khuẩn đối với cầu khuẩn ruột, nên trong trường hợp viêm nội tâm mạc hoặc nhiễm khuẩn nặng khác.

Dengue: bệnh virus toàn thân

Dengue là bệnh có sốt tự khỏi không đặc hiệu; biểu hiện bệnh rất thay đổi, có thể từ nhiễm virus không có triệu chứng tới xuất huyết nặng và sốc đột ngột gây tử vong.

Virus herpes typ 1 và 2

Các virus herpes typ 1 và 2 chủ yếu gây tổn thương ở vùng miệng tiếp đến là vùng sinh dục. Tỷ lệ huyết thanh dương tính của cả hai nhóm này tăng theo lửa tuổi, riêng đối với typ 2 tăng theo hoạt động tình dục.

Ỉa chảy nhiễm khuẩn cấp tính

Điều trị chủ yếu là bù nước và điện giải, trong một vài trường hợp có thể phải điều trị sốc mất nước và hỗ trợ hô hấp. Nói chung, phân lớn các trường hợp ỉa chảy cấp tính đều tự khỏi.

Nhiễm Adenovirus

Những bệnh nhân ghép gan bị nhiễm virus có xu hướng phát triển viêm gan typ 5, còn những người ghép tủy xương và ghép thận có xu hướng viêm phổi phát triển hoặc viêm bàng quang xuất huyết.

Ỉa chảy ở người du lịch

Tránh dùng thức ăn và nguồn nước để lạnh dễ bị nhiễm bẩn ở những người du lịch tới các nước đang phát triển nơi mà bệnh ỉa chảy nhiễm khuẩn đang là dịch lưu hành.

Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương

Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương có thể được phân thành vài thể bệnh, thông thường có thể dễ phân biệt các thể bệnh với nhau nhờ xét nghiệm dịch não tủy, đây là bước đầu tiên để chẩn đoán căn nguyên.

Nhiễm khuẩn do Hemophilus influenzae

Ớ người lớn ít gặp chủng hemophilus tiết men β lactamase hơn ở trẻ em. Có thể điều trị với người lớn bị viêm xoang, viêm tai hay nhiễm khuẩn đường hô hấp bằng amoxicillin 500mg.

Nhiễm virus Poxvirus

Vaccin bệnh đậu bò có khả năng loại trừ một phần bệnh đậu mùa. Vaccin thông thường chỉ được dùng cho người ở phòng xét nghiệm vì người này phải tiếp xúc với virus.

Nhiễm echovirus

Cũng như nhiễm các virus đường tiêu hóa khác, chẩn đoán cần dựa vào sự tương quan giữa lâm sàng, dịch tễ và xét nghiệm. Có thể nuôi cấy các virus từ dịch súc họng, máu hoặc dịch não tủy vào các tế bào.

Nhiễm khuẩn ở những người tiêm chích

Các bệnh lây truyền qua đường tình dục không liên quan trực tiếp đến tiêm chích nhưng qua thực tế quan hệ tình dục để trao đổi ma tuý đã làm tăng tần suất các bệnh lây truyền qua đường tình dục.

Viêm não đám rối màng mạch tăng lympho bào

Triệu chứng biểu hiện bằng 2 giai đoạn. Giai đoạn tiền triệu biểu hiện bằng sốt, rét run, đau cơ, ho và nôn. Giai đoạn màng não biểu hiện đau đầu, buồn nôn, nôn và ngủ lịm.

Cúm

Có thể dùng vaccin cho những người nhiễm HIV mà vẫn an toàn. Mối lo lắng về sự hoạt hóa nhân lên của virus HIV do các yếu tố gây miễn dịch có thể là quá mức cần thiết.

Một số bệnh nhiễm khuẩn do Vibrio gây nên

V vulnificus và V alginolyticus đều không gây tiêu chảy, nhưng chủ yếu gây viêm mô tế bào dưới da và nhiễm khuẩn huyết tiên phát, Sau khi ăn sò có vi khuẩn hoặc tiếp xúc với nước biển.

Những tác nhân gây bệnh giống virus có thời gian tiềm tàng kéo dài

Chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu mà chỉ có phòng bệnh bằng cách tránh lây nhiễm từ tổ chức não bị bệnh, điện cực, dụng cụ phẫu thuật thần kinh hoặc tránh ghép giác mạc.

Định hướng chẩn đoán và xử trí sốt không rõ nguyên nhân

Bệnh Still, lupus ban đỏ hệ thống, nhiễm cryoglobulin máu, viêm nút đa động mạch là các nguyên nhân tự miễn thường gặp nhất gây sốt không rõ nguyên nhân.

Sốt phát ban thành dịch do chấy rận (do rickettsia)

Những yếu tố làm bệnh dễ lây truyền là sống đông người, chật chội, hạn hán, chiến tranh hoặc bất kỳ hoàn cảnh nào chấy rận nhiều

Bệnh đậu do rickettsia

Bạch cầu giảm, nồng độ kháng thể tăng bằng phản ứng kết hợp bổ thể hoặc dùng phản ứng huỳnh quang gián tiếp sử dụng globulin kháng rickettsia liên hợp.

Bệnh viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn

Đa số bệnh nhân bị viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là có bệnh tim từ trước, ngược với một số trường hợp xảy ra trên người không có bệnh tim, chủ yếu là ở người tiêm chích.

Bệnh xoắn khuẩn không lây qua đường tình dục

Ghẻ cóc là một bệnh truyền nhiễm phân bổ chủ yếu ở các vùng nhiệt đới, do T. pallidum dưới nhóm pertenue gây nên. Đặc trưng của bệnh là các tổn thưong u hạt ở da, niêm mạc và xương.

Viêm dạ dày ruột do Escherichia Coli

Kháng sinh không có tác dụng, điều trị nâng đỡ là chủ yếu. Khi có tiêu chảy và hội chứng urê huyết - huyết tán đồng thời, cần nghĩ tới E. coli gây xuất huyết và phát hiện chúng.

U hạt vùng bẹn

Đó là những cục thâm nhiễm tương đối ít đau và nhanh chóng bong ra, để lại các vết loét nông, bờ rõ rệt, nền là tổ chức hạt mủn, màu đỏ như thịt bò.

Nhiễm virus coxsackie

Những xét nghiệm thông thường không thấy có bất thường đặc trưng của bệnh. Kháng thể bằng phản ứng trung hòa xuất hiện trong giai đoạn hồi phục của bệnh.

Bệnh do Ehrlichiae

Ehrlichiae bạch cầu hạt ở người gần đây xuất hiện nhiều hơn. Phân bố địa lý của bệnh giống bệnh Lyme, mặc dù ranh giới phân vùng của bệnh chưa được xác định đầy đủ.