Tiếp cận và dự phòng các bệnh truyền nhiễm

2016-05-30 10:21 PM

Thủ nghiệm da tìm bệnh lao và sau đó điều trị các bệnh nhân có lựa chọn, phản ứng da dương tính với isoniazid phòng bệnh làm giảm nguy cơ bệnh lao hoạt động trở lại.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Mặc dù có những thành tựu về tiêm chủng và liệu pháp kháng sinh, phần nhiều việc giảm tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết do các bệnh nhiễm khuẩn được quy cho là nhờ các liệu pháp sức khỏe công cộng tốt hơn - đặc biệt là hệ thống vệ sinh được cải thiện, dinh dưỡng tốt hơn và sự phồn vinh tăng lên.

Tiêm chủng vẫn là phương tiện tốt nhất để dự phòng nhiều bệnh nhiễm khuẩn bao gồm uốn ván, bạch hầu, bại liệt, sởi, quai bị, rubêola, viêm gan B, sốt vàng, cúm, viêm phổi do phế cầu khuẩn, nhiễm khuấn hemophilus influenzae typ B. Những người đi tới các nước có bệnh nhiễm khuẩn lưu hành địa phương thì phải thận trọng đặc biệt

Thủ nghiệm da tìm bệnh lao và sau đó điều trị các bệnh nhân có lựa chọn, phản ứng da dương tính với isoniazid phòng bệnh làm giảm nguy cơ bệnh lao hoạt động trở lại. Các bệnh nhân nhiễm HIV đặc biệt có nguy cơ cao phục hồi họạt động của bệnh lao. Dự phòng và điều trị lao ở những người nhiễm HIV được thảo luận ở chương riêng vì hiện nay đang quan tâm nhiều hơn về bệnh lao kháng nhiều thuốc.

AIDS ngày nay là vấn đề bệnh nhiễm khuẩn chủ yếu ở thế giới phương Tây. Vì tiếp xúc tình dục là phương thức truyền bệnh thông thường, việc dự phòng phải trông cậy vào các thói quen tinh dục, tuy rằng ngày càng tăng những trường hợp nhiễm HIV được truyền do tiêm ma túy vào tĩnh mạch. Thử nghiệm kháng thể HIV hiện nay được thực hiện rộng rãi có độ nhậy và độ đặc hiệu cao. Song sự biến chuyển huyết thanh sau nhiễm bệnh phải mất 6 tháng và có lẽ còn lâu hơn, nên các kết quả âm tính giả có thể xẩy ra. Phần lớn các nhà lâm sàng hiện nay ủng hộ việc thử nghiệm chọn lựa cho những người có nguy cơ cao. Việc phát hiện những người khpng có triệu chứng mà đã nhiễm HIV là quan trọng đối với các chiến lược dự phòng và cho phép họ lo đến việc điều trị giúp cho họ kéo dài cuộc sống.

Mặc dù các vaccin virus sống (như là vaccin sởi, quai bị và rubêola [MMR]) (Vaccin huyết thanh khỉ Macacus Mulelta đã bị rubêola) thường không được khuyên dùng cho những bệnh nhân bị tổn thương miễn dịch, những bệnh nhân nhiễm HIV không có triệu chứng thường đã không biểu hiện những hậu quả có hại khi họ tiêm các vaccin đó. Do đó, những cá nhân này phải được tiêm chủng MMR và cúm cũng như uốn ván, viêm gan B, H. Influenzae typ B và phế cầu khuẩn. Song nếu cầu tiêm chủng bại liệt, phải dùng vaccin bại liệt khử hoạt tính. Phải cho các bệnh nhân nhiễm HIV không triệu chứng vaccin cúm hàng năm, nhưng phải thận trọng dùng các vaccin sống nhự là MMR.

Ban phòng chống bệnh lây đã công bố một chiến lược mới để thanh toán sự lây truyền virus viêm gan B. Các khuyến nghị bao gồm thử nghiệm trước khi sinh tất cả các thai phụ về di truyền kháng thể đặc hiệu viêm gan B để xác định các trẻ sơ sinh cần có globulin miễn dịch viêm gan B khi sinh ra, sau đó được tiêm chủng viêm gan B và xác định những người tiếp xúc với người bệnh trong gia đình cần được tiêm chủng, tiêm chủng cho thanh thiếu niên ở các cộng đồng nơi thường có sử dụng tiêm ma túy tĩnh mạch, có thể ở tuổi thanh thiếu niên hoặc các bệnh lây truyền đường sinh dục; và tiêm chủng cho những người lớn có nguy cơ nhiễm khuẩn cao. Những người lớn này bao gồm những người có nguy cơ nghề nghiệp, khách hàng và nhân viên của các cơ sở cho người bị khuyết tật phát triển; các bệnh nhân thẩm phân máu; những người nhận các nhân tố đông máu cô đặc; những ngưòi tiếp xúc trong gia đình và các bạn tình của những người mang virus viêm gan B; các con nuôi từ các nước có nhiễm virus viêm gan B lưu hành địa phương; những du khách quốc tế; những người tiêm chích ma túy; những người nam và nữ luyến ái đồng tính có hoạt động tình dục, đặc biệt những người mới bị bệnh lây truyền đường tình dục; và những người sống dài hạn trong các nhà tù.

Năm cuối cùng cho các báo cáo mới về các trường hợp bại liệt ở Tây bán cầu đã là 1991. Một mục tiêu được lập nên về thanh toán trên toàn thế giới bệnh bại liệt vào năm 2000; nếu thành công thì sự thanh toán này sẽ theo sau thanh toán bệnh đậu (1978) và bệnh giun chỉ Mêđin (vào năm 1996).

Bài viết cùng chuyên mục

Tiếp cận và dự phòng bệnh ung thư

Có những kỹ thuật được mọi người chấp nhận để dự phòng cấp hai các ung thư vú, ruột kết, cổ tử cung bằng các thủ tục kiểm tra phát hiện ung thư.

Chăm sóc và điều trị bằng thuốc an thần gây ngủ

Lo âu có thể là một bộ phận của phức hợp triệu chứng, gặp ỏ trầm cảm nặng, rối loạn, hoảng loạn, nhiễm độc thuốc hoặc hội chứng cắt thuốc.

Tiếp cận điều trị sốt và tăng thân nhiệt

Tăng thân nhiệt không có sự điều chỉnh của cytokin xảy ra khi sự sản xuất nhiệt do chuyển hóa của cơ thể hoặc tái nhiệt của môi trường vượt quá khả năng mất nhiệt bình thường.

Tiếp cận và dự phòng lạm dụng các chất

Mặc dù số những người Mỹ dùng các chất ma túy phi pháp giảm xuống đều đặn, kể cả cocain lác đác từng nơi hoặc thất thường từng lúc, song việc sử dụng các chất này vẫn là một vấn đề quan trọng.

Chăm sóc và điều trị sốt cho bệnh nhân

Sốt có thể gây tăng dị hóa tổ chức, mắt nước, kịch phát suy tim, mê sảng và co giật, điều trị sốt được chỉ định khi các tác dụng có hại đó được bộc lộ.

Tiếp cận bệnh nhân sụt cân

Sụt cân từ từ và nhẹ xẩy ra ở một số người già. Đó là do các thay đổi sinh lý trong cấu tạo cơ thể, bao gồm sụt cân và khối cơ thể gầy mảnh, mức chuyển hóa cơ bản thấp hơn.

Tiếp cận triệu chứng đau và thuốc điều trị

Các thuốc giảm đau dạng thuốc phiện, được chỉ định cho đau nặng, mà các tác nhân kém hiệu lực hơn không thể làm giảm nhẹ.

Phòng bệnh do thiếu hoạt động thân thể và lối sống tĩnh tại

Những người nam và nữ bị viêm khớp xương triệu chứng mạn tính ở một hoặc hai bên đầu gối nhận được lợi ích từ một chương trình đi bộ có giám sát.

Tiếp cận chẩn đoán với bệnh nhân

Nói chung, các bệnh nhân có vẻ có khả năng tốt nhớ lại các hướng dẫn dùng thuốc theo đơn hơn là theo đúng các lời khuyên bảo theo một chế độ ăn, tập luyện đều đặn.

Tiếp cận và dự phòng các bệnh tim mạch và mạch não

Trên 50 triệu người lớn tại Hoa Kỳ bị tăng huyết áp, Ở mỗi nhóm tuổi người lớn, các giá trị cao hơn về huyết áp tâm thu và tâm trương mang đến các nguy cơ cao hơn.

Chăm sóc và điều trị giảm đau cho bệnh nhân

Đau cấp thường chỉ đòi hỏi giảm đau tạm thời nhằm vào nguyên nhân được dự đoán. Đau mạn tính có thể gặp trong nhiều hoàn cảnh. Khi có thể thì nên dùng những chế phẩm không gây ngủ.

Y lệnh điều trị và chăm sóc bệnh nhân

Những y lệnh đầu tiên cần được ghi càng sớm càng tốt, sau khi tiếp nhận và đánh giá bệnh nhân, mỗi một phiếu y lệnh phải kèm theo ngày giờ viết, và chữ ký rõ ràng của thầy thuốc.

Duy trì sức khỏe và phòng ngừa bệnh tật

Dự phòng bước đầu là phương pháp khống chế bệnh hiệu nghiệm và tiết kiệm nhất, hơn xa so với các phương pháp khác, nhưng phần lớn các thầy thuốc còn thiếu sót trong hành nghề.

Tiếp cận bệnh nhân mệt nhọc

Hội chứng mệt nhọc mạn tính không phải là bệnh đồng nhất và không có một cơ chế sinh bệnh duy nhất. Không có phát hiện thực thể hoặc test ở labô nào có thể xác minh chẩn đoán về hội chứng này.

Chỉ định và thực hiện điều trị bằng thuốc cho bệnh nhân

Phản ứng phụ của thuốc xảy ra thường xuyên và mức độ tăng lên tỷ lệ với số thuốc dùng. Các phản ứng đó có thể là dị ứng, đặc ứng hoặc tăng thêm, các tác dụng đã biết do tăng liều.

Tiếp cận và dự phòng các tai nạn và bạo lực

Mới đây, các tư liệu nghiên cứu đã xác minh rằng việc nghiện rượu kinh niên ảnh hưởng xấu đến kết quả điều trị chấn thương và làm tăng nguy cơ vào viện do chấn thương mới.