Tiếp cận bệnh nhân sụt cân

2016-05-31 03:29 PM

Sụt cân từ từ và nhẹ xẩy ra ở một số người già. Đó là do các thay đổi sinh lý trong cấu tạo cơ thể, bao gồm sụt cân và khối cơ thể gầy mảnh, mức chuyển hóa cơ bản thấp hơn.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Sụt cân rõ rệt không được giải thích thường là dấu hiệu của sự đau yếu cơ thể hoặc tâm lý. Nó cần được phân biệt với sự sụt cán do ý định. Sụt cân nhiều có thể do nhiều quá trình bệnh của bất kỳ hệ thống cơ quan nào cũng như các rối loạn tâm thần.

Khi bệnh nhân than phiền về sụt cân nhưng có vẻ như được nuôi dưỡng đầy đủ, cần phải điều tra các thay đổi cân nặng (với những ngày thầng xấp xỉ) và các thay đổi về cỡ quần áo. Những người trong gia đình có thể cung cấp sự xác nhận về sụt cân.

Một khi đã xác minh rằng bệnh nhân bị sụt cân rõ rệt, cơ thể chỉ định các xét nghiệm hoặc điện quang như là X quang phổi, đếm máu toàn bộ, các đặc tính hóa học của huyết thanh, phân tích nước tiểu, chụp X quang hàng loạt về đường dạ dầy - ruột. Sụt cân không cố ý hiếm khi do một "bệnh kín đáo". Hầu hết tất cả những nguyên nhân tự nhiên đều hiển nhiên trên lâm sàng trong đánh giá ban đầu về bệnh nhân. Sụt cân rõ rệt đôi khi có thể xẩy ra mà không có bệnh thân thể nặng. Phải cân nhắc đến việc hội chẩn tâm thần học khi có chứng cớ về sự chán nản, mất trí, chán ăn tâm thần hoặc các vấn đề tâm lý khác.

Sụt cân từ từ và nhẹ xẩy ra ở một số người già. Đó là do các thay đổi sinh lý trong cấu tạo cơ thể, bao gồm sụt cân và khối cơ thể gầy mảnh, mức chuyển hóa cơ bản thấp hơn. Liều này dẫn tới yêu cầu năng lượng giảm đi. Song sụt cân không cố ý và nhanh là sự báo trước có giá trị cao về tình trạng bệnh hoặc chết của số dân cao tuổi. Các nguyên nhân bao gồm mất hết răng do đó khó nhai, nghiện rượu, sự tách biệt với xã hội kèm thêm với các trạng thái bệnh khác nhau.

Sụt cân không có ý định là biến chứng thường xẩy ra trong AIDS. Sự gày mòn, biểu thị suy dinh dưỡng calo - protein nặng (hội chứng gầy mòn do HIV) là một trong các yếu tố xác định trường hợp AIDS của Tiêu chuẩn Chẩn đoán Lâm sàng. Suy dinh dưỡng ở những bệnh nhân nhiễm HIV có thể gây tổn hại chức năng miễn dịch và góp phần vào sự tiến triển của AIDS. Cơ chế của sụt cân, ở các bệnh nhân AIDS chắc chắn nhất là có nhiều nhân tố, bao gồm giảm đưa calo vào, kém hấp thụ, tiêu thụ năng lượng, bị biến đổi do các bất thường về hormon hoặc chuyển hóa. Trong một nghiên cứu gần đây về các bệnh nhân nhiễm HIV, phần lớn các đợt giảm cân nhanh (trên 4kg trong thời gian dưới 4 tháng) là do các nhiễm khuẩn tình huống không ở đường dạ dày - ruột, trái lại sụt câu từ từ hơn (dưới 4kg trong 4 tháng) thường là trên cơ sở bệnh dạ dầy - ruột đặc biệt là tiêu chảy và kém hấp thu. Như vậy sụt cân có khả năng hồi phục lại với điều trị các nhiễm khuẩn tình huống hoặc các bệnh khác có thể xác định. Megestrol acetat, một tác nhân dưỡng thai tổng hợp đã tỏ ra có hiệu lực kích thích ăn ngon miệng và tăng cân tới 0,5kg một tuần cho một số bệnh nhân bị suy mòn liên quan với HIV. Thuốc được cho uống với liều thường dùng là 80mg, 4 lần hàng ngày.

Bài viết cùng chuyên mục

Tiếp cận và dự phòng các bệnh truyền nhiễm

Thủ nghiệm da tìm bệnh lao và sau đó điều trị các bệnh nhân có lựa chọn, phản ứng da dương tính với isoniazid phòng bệnh làm giảm nguy cơ bệnh lao hoạt động trở lại.

Tiếp cận và dự phòng các tai nạn và bạo lực

Mới đây, các tư liệu nghiên cứu đã xác minh rằng việc nghiện rượu kinh niên ảnh hưởng xấu đến kết quả điều trị chấn thương và làm tăng nguy cơ vào viện do chấn thương mới.

Chăm sóc và điều trị bằng thuốc an thần gây ngủ

Lo âu có thể là một bộ phận của phức hợp triệu chứng, gặp ỏ trầm cảm nặng, rối loạn, hoảng loạn, nhiễm độc thuốc hoặc hội chứng cắt thuốc.

Chăm sóc và điều trị sốt cho bệnh nhân

Sốt có thể gây tăng dị hóa tổ chức, mắt nước, kịch phát suy tim, mê sảng và co giật, điều trị sốt được chỉ định khi các tác dụng có hại đó được bộc lộ.

Tiếp cận triệu chứng đau và thuốc điều trị

Các thuốc giảm đau dạng thuốc phiện, được chỉ định cho đau nặng, mà các tác nhân kém hiệu lực hơn không thể làm giảm nhẹ.

Chỉ định và thực hiện điều trị bằng thuốc cho bệnh nhân

Phản ứng phụ của thuốc xảy ra thường xuyên và mức độ tăng lên tỷ lệ với số thuốc dùng. Các phản ứng đó có thể là dị ứng, đặc ứng hoặc tăng thêm, các tác dụng đã biết do tăng liều.

Duy trì sức khỏe và phòng ngừa bệnh tật

Dự phòng bước đầu là phương pháp khống chế bệnh hiệu nghiệm và tiết kiệm nhất, hơn xa so với các phương pháp khác, nhưng phần lớn các thầy thuốc còn thiếu sót trong hành nghề.

Chăm sóc và điều trị giảm đau cho bệnh nhân

Đau cấp thường chỉ đòi hỏi giảm đau tạm thời nhằm vào nguyên nhân được dự đoán. Đau mạn tính có thể gặp trong nhiều hoàn cảnh. Khi có thể thì nên dùng những chế phẩm không gây ngủ.

Tiếp cận và dự phòng các bệnh tim mạch và mạch não

Trên 50 triệu người lớn tại Hoa Kỳ bị tăng huyết áp, Ở mỗi nhóm tuổi người lớn, các giá trị cao hơn về huyết áp tâm thu và tâm trương mang đến các nguy cơ cao hơn.

Phòng bệnh do thiếu hoạt động thân thể và lối sống tĩnh tại

Những người nam và nữ bị viêm khớp xương triệu chứng mạn tính ở một hoặc hai bên đầu gối nhận được lợi ích từ một chương trình đi bộ có giám sát.

Tiếp cận và dự phòng bệnh ung thư

Có những kỹ thuật được mọi người chấp nhận để dự phòng cấp hai các ung thư vú, ruột kết, cổ tử cung bằng các thủ tục kiểm tra phát hiện ung thư.

Tiếp cận và dự phòng lạm dụng các chất

Mặc dù số những người Mỹ dùng các chất ma túy phi pháp giảm xuống đều đặn, kể cả cocain lác đác từng nơi hoặc thất thường từng lúc, song việc sử dụng các chất này vẫn là một vấn đề quan trọng.

Tiếp cận chẩn đoán với bệnh nhân

Nói chung, các bệnh nhân có vẻ có khả năng tốt nhớ lại các hướng dẫn dùng thuốc theo đơn hơn là theo đúng các lời khuyên bảo theo một chế độ ăn, tập luyện đều đặn.

Y lệnh điều trị và chăm sóc bệnh nhân

Những y lệnh đầu tiên cần được ghi càng sớm càng tốt, sau khi tiếp nhận và đánh giá bệnh nhân, mỗi một phiếu y lệnh phải kèm theo ngày giờ viết, và chữ ký rõ ràng của thầy thuốc.

Tiếp cận điều trị sốt và tăng thân nhiệt

Tăng thân nhiệt không có sự điều chỉnh của cytokin xảy ra khi sự sản xuất nhiệt do chuyển hóa của cơ thể hoặc tái nhiệt của môi trường vượt quá khả năng mất nhiệt bình thường.

Tiếp cận bệnh nhân mệt nhọc

Hội chứng mệt nhọc mạn tính không phải là bệnh đồng nhất và không có một cơ chế sinh bệnh duy nhất. Không có phát hiện thực thể hoặc test ở labô nào có thể xác minh chẩn đoán về hội chứng này.