- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh tim
- Tràn dịch màng ngoài tim
Tràn dịch màng ngoài tim
Tràn dịch màng tim có thể kết hợp với đau nếu như chúng xảy ra như là một phần của quá trình viêm cấp tính hoặc có thể không có đau và thường gặp ở những trường hợp tràn dịch do ung thư hoặc do tăng ure máu.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Tràn dịch màng tim có thể xảy ra trong bất kỳ quá trình bệnh lý nào đã được thảo luận. Tốc độ tích luỹ dịch quyết định ảnh hưỏng sinh lý của tràn dịch. Bởi vì màng ngoài tim có thể căng ra, lượng dịch lớn nhưng xuất hiện chậm có thể không gây ra ảnh hưởng huyết động. Tràn dịch ít hơn nhưng xảy ra nhanh có thể gây ra ép tim. Ép tim được đặc trưng bằng áp lực trong khoang màng ngoài tim tăng (> 15 mmHg). Nó làm hạn chế sự trở về của máu tĩnh mạch và hạn chế đổ đầy tâm thất. Hậu quả là thể tích nhát bóp và áp lực động mạch giảm, tần số tim và áp lực tĩnh mạch tăng. Sốc và tử vong có thể xảy ra.
Các dấu hiệu và triệu chứng
Tràn dịch màng tim có thể kết hợp với đau nếu như chúng xảy ra như là một phần của quá trình viêm cấp tính hoặc có thể không có đau và thường gặp ở những trường hợp tràn dịch do ung thư hoặc do tăng ure máu. Khó thở và ho là những triệu chứng thường gặp, đặc biệt là trong ép tim. Các triệu chứng khác có thể do bệnh cơ sở gây ra.
Tiếng cọ màng ngoài tim có thể có ngay cả khi có tràn dịch nhiều. Trong ép tim, nhịp tim nhanh, khó thở nhanh, huyết áp kẹt và huyết áp tâm thu tương đối được bảo tồn là những triệu chứng đặc trưng. Mạch nghịch thường là khi huyết áp tâm thu giảm trên 10 mmHg trong thì hít vào vì giảm hơn nữa đổ đầy thất trái, dấu hiệu này là một dấu hiệu cổ điển, nhưng nó cũng xảy ra trong các bệnh phổi tắc nghẽn. Áp lực tĩnh mạch trung tâm táng và phù hoặc cổ trướng có thể xảy ra, và các dấu hiệu hiện nay chứng tỏ quá trình bệnh mạn tính nhiều hơn.
Các dấu hiệu cận lâm sàng
Các xét nghiệm cận lâm sàng có xu hướng phản ánh các bệnh cơ sở.
Các thăm dò chẩn đoán
Chụp X quang ngực có thể cho thấy tràn dịch bởi bóng tim to, có hình "bình nước". Điện tâm đồ thường có những thay đổi không đặc hiệu của sóng T và điện thể QRS thấp. Có thể có biến đổi điện. Siêu âm có thể là phương pháp hàng đầu để phát hiện tràn dịch màng tim. Ép tim có bệnh cảnh lâm sàng đặc trưng của đổ đầy thất không đầy đủ (ép tâm thất phải trong thì tâm trương hoặc ép tâm nhĩ phải). Siêu âm cho phép phân biệt nhanh chóng tràn dịch màng tim với suy tim ứ trệ. Cộng hưởng từ hạt nhân cũng cho thấy có tràn dịch màng ngoài tim và các tổn thương. Chọc màng ngoài tim và sinh thiết để chẩn đoán thường được chi định để xét nghiệm vi khuẩn và tế bào học. Sinh thiết màng ngoài tim có thể được thực hiện tương đối đơn giản qua một vết rạch nhỏ ở dưới mũi ức.
Điều trị
Tràn dịch ít có thế được theo dõi về lâm sàng và bằng siêu âm. Khi ép tim xảy ra, cần phải chọc dò màng ngoài tim cấp cứu. Lấy bớt một lượng nhỏ dịch thường tạo ta sự cải thiện huyết động tức thời, nhưng dẫn lưu hoàn toàn bằng một ống thông được ưa dùng nhất; có thể chỉ định dẫn lưu liên tục.
Bản chất của quá trình bệnh cơ sở quyết định việc điều trị hổ trợ. Tràn dịch tái phát trong bệnh ung thư và tăng ure máu nói riêng có thể phải cắt màng ngoài tim một phần.
Bài viết cùng chuyên mục
Hở van hai lá
Hở van hai lá có thể do nhiều quá trình gây ra. Bệnh thấp kết hợp với van dày và giảm di động của lá van và thường có bệnh cảnh hỗn hợp của hẹp và hở.
Nhịp nhanh trên thất do đường dẫn truyền phụ nhĩ thất
Những bệnh nhân có khoảng RR dưới 220 ms là những người có mối nguy cơ cao nhất. Digoxin và verapamil, các chẹn beta với một mức độ ít hơn có thể làm giảm thời gian trơ của đường dẫn truyền phụ.
Hở van động mạch chủ
Hở van động mạch chủ đã trở nên ít gặp hơn từ thời đại kháng sinh, nhưng các nguyên nhân không do thấp lại thường gặp hơn, và là nguyên nhân chủ yếu gây hở van động mạch chủ đơn độc.
Thông liên thất
Trong tổn thương này, có một lỗ thông ở phần trên của vách liên thất do không hợp nhất được với thành động mạch chủ nên máu đi từ tâm thất trái có áp lực cao sang thất phải có áp lực thấp.
Các xét nghiệm và thủ thuật chẩn đoán bệnh tim mạch
Các thủ thuật chẩn đoán không chảy máu đã ngày càng tăng về số lượng và ứng dụng trong chẩn đoán. Tuy nhiên chúng thường bị lạm dụng quá mức.
Viêm cơ tim cấp nhiễm trùng
Bệnh nhân có thể có dấu hiệu trong vài ngày đến một vài tuần sau đợt sốt cấp hoặc nhiễm khuẩn đường hồ hấp hoặc có suy tim mà không có triệu chứng trước đó.
Cơ chế rối loạn nhịp tim
Liệu tần số tim chậm có sinh ra triệu chứng lúc nghỉ hoặc khi gắng sức hay không là tùy thuộc vào tình trạng cơ sở của cơ tim và khả năng nó có thể tăng thể tích nhát bóp.
Thủ thuật tái tưới máu cho các bệnh nhân bị đau thắt ngực
Sau khi phẫu thuật thành công các triệu chứng nói chung là giảm bớt. Nhu cầu các thuốc chống đau thắt ngực cũng giảm đi và chức năng thất trái tốt lên.
Hẹp hở van ba lá
Hở van ba lá thứ phát do bệnh van hai lá nặng, hoặc các tổn thương tim trái khác, có thể thoái lui khi bệnh cơ sở được điều trị
Viêm màng ngoài tim co thắt
X quang ngực có thể thấy kích thước tim bình thường hoặc tim to. Calci hóa màng ngoài tim cũng thường gặp và nhìn thấy rõ nhất ở tư thế nghiêng.
Bệnh cơ tim phì đại
Triệu chững thường gặp nhất là khó thở vá đau ngực. Ngất cũng thường gặp và rất điển hình là sau gắng sức là lúc mà đổ đầy tâm trương giảm xuống trong khi sự tắc nghẽn đường ra lại tăng lên.
Bệnh mạch vành: bệnh xơ cứng động mạch vành, bệnh tim thiếu máu cục bộ
Các quá trinh này tiến triển chậm qua nhiều thập kỷ trong hầu hết các trường hợp. Trái lại, lịch sử tự nhiên của mảng xơ vữa chín khó có thể dự đoán được.
Đau thắt ngực
Đau thắt ngực thường do bệnh xơ vữa các động mạch vành gây ra. Co thắt động mạch vành cũng có thể xẩy ra ở vị trí tổn thương hoặc hiếm hơn, ở những động mạch hoàn toàn bình thường.
Bệnh tim do phổi
Triệu chứng nổi bật của chứng tâm phế mạn còn bù là triệu chứng liên quan tới bệnh phổi và gồm ho và gầy, dễ mệt và yếu. Khi bệnh phổi gây ra suy thất phải, các triệu chứng này tăng lên.
Nhồi máu cơ tim cấp
Kích thước và vị trí của ổ nhồi máu quyết định bệnh cảnh lâm sàng cấp, các biến chứng sớm và tiên lượng lâu dài. Các dấu hiệu huyết động có liên quan trực tiếp tới mức độ lan rộng của những lần nhồi máu trước.
Thông liên nhĩ
Những bệnh nhân với shunt nhỏ có thể có cuộc sống bình thường, các shunt lớn sẽ gây ra biến chứng ở tuổi bốn mươi. Tăng sức cản mạch máu phổi thứ phát dẫn tới tăng huyết áp động mạch phổi hiếm khi xảy ra ở trẻ em.
Nhịp nhanh nhĩ đa ổ (hỗn loạn) và nhịp bộ nối nhĩ thất
Bộ nối nhĩ nút hoặc nút bó His có thể đảm nhận hoạt động chủ nhịp của tim, thường ở tần số 40 đến 60 lần/phút. Nó có thể xảy ra ở bệnh nhân có viêm cơ tim, bệnh mạch vành và ngộ độc digitalis cũng như những người có tim bình thường.
Ngoại tâm thu nhĩ
Những nhát ngoại tâm thu như vậy thường xảy ra ở tim bình thường và không bao giờ là cơ sở đầy đủ cho chẩn đoán bệnh tim. Việc tăng nhanh tần số tim bằng bất kỳ cách nào đều xoá bỏ được ngoại tâm thu.
Rung nhĩ và cuồng động nhĩ
Chống đông bằng warfarin làm giảm biến chứng tắc nghẽn mạch ở những bệnh nhân dưới 75 tuổi. Aspirin cũng có ích ở những bệnh nhân dưới 75 tuổi.
Suy tim: chẩn đoán và điều trị
Khi tim suy, một số thích ứng xảy ra cả ở tim và ở ngoại biên. Nếu như thể tích nháp bóp của thất giảm do giảm co bóp hoặc tăng tiền gánh qụá mức, thể tích và áp lực cuối tâm trương ở những buồng này sẽ tăng lên.
Hội chứng QT dài
Hội chủng QT dài mắc phải xảy ra thứ phát do sử dụng các thuốc chống loạn nhịp hoặc các thuốc chống trầm cảm, do rối loạn điện giải thiếu máu cơ tim hoặc nhịp chậm rõ rệt co thể gây ra tim nhanh thất.
Triglycerid máu cao
Điều trị cơ bản với chứng tăng triglycerid là chế độ ăn, tránh dùng rượu và thức ăn béo, hạn chế calo. Sự kiểm soát các nguyên nhân thứ phát gây tăng nồng độ triglycerid cũng có thể hữu ích.
Viêm cơ tim cấp do thuốc và nhiễm độc
Các phản ứng tăng nhạy cảm với sulfonamid, penicillin và aminosalicylic acid cũng nhừ các thuốc khác có thể gây ra rối loạn chức năng tim. Tia xạ cũng có thể gây phản ứng viêm cơ tim cấp cũng như gây xơ hóa mạn tính, thường gắn liền với viêm màng ngoài tim.
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn
Những vi khuẩn độc hơn, đặc biệt là tụ cầu vàng, có khuynh hướng gây ra nhiễm khuẩn tiến triển và hủy hoại nhanh hơn. Bệnh nhân thường có biểu hiện bằng sốt cấp tính
Block đường ra xoang nhĩ và hội chứng nút xoang bệnh lý
Blốc xoàng nhĩ thường không có triệu chứng, mặc dù ngừng dài tương đương với ngừng xoang hiếm khi xảy ra như là một phần của hội chứng nút xoang bệnh lý và được điều trị như được phác thảo dưới đây.