Tràn dịch màng ngoài tim

2016-11-04 11:51 AM

Tràn dịch màng tim có thể kết hợp với đau nếu như chúng xảy ra như là một phần của quá trình viêm cấp tính hoặc có thể không có đau và thường gặp ở những trường hợp tràn dịch do ung thư hoặc do tăng ure máu.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Tràn dịch màng tim có thể xảy ra trong bất kỳ quá trình bệnh lý nào đã được thảo luận. Tốc độ tích luỹ dịch quyết định ảnh hưỏng sinh lý của tràn dịch. Bởi vì màng ngoài tim có thể căng ra, lượng dịch lớn nhưng xuất hiện chậm có thể không gây ra ảnh hưởng huyết động. Tràn dịch ít hơn nhưng xảy ra nhanh có thể gây ra ép tim. Ép tim được đặc trưng bằng áp lực trong khoang màng ngoài tim tăng (> 15 mmHg). Nó làm hạn chế sự trở về của máu tĩnh mạch và hạn chế đổ đầy tâm thất. Hậu quả là thể tích nhát bóp và áp lực động mạch giảm, tần số tim và áp lực tĩnh mạch tăng. Sốc và tử vong có thể xảy ra.

Các dấu hiệu và triệu chứng

Tràn dịch màng tim có thể kết hợp với đau nếu như chúng xảy ra như là một phần của quá trình viêm cấp tính hoặc có thể không có đau và thường gặp ở những trường hợp tràn dịch do ung thư hoặc do tăng ure máu. Khó thở và ho là những triệu chứng thường gặp, đặc biệt là trong ép tim. Các triệu chứng khác có thể do bệnh cơ sở gây ra.

Tiếng cọ màng ngoài tim có thể có ngay cả khi có tràn dịch nhiều. Trong ép tim, nhịp tim nhanh, khó thở nhanh, huyết áp kẹt và huyết áp tâm thu tương đối được bảo tồn là những triệu chứng đặc trưng. Mạch nghịch thường là khi huyết áp tâm thu giảm trên 10 mmHg trong thì hít vào vì giảm hơn nữa đổ đầy thất trái, dấu hiệu này là một dấu hiệu cổ điển, nhưng nó cũng xảy ra trong các bệnh phổi tắc nghẽn. Áp lực tĩnh mạch trung tâm táng và phù hoặc cổ trướng có thể xảy ra, và các dấu hiệu hiện nay chứng tỏ quá trình bệnh mạn tính nhiều hơn.

Các dấu hiệu cận lâm sàng

Các xét nghiệm cận lâm sàng có xu hướng phản ánh các bệnh cơ sở.

Các thăm dò chẩn đoán

Chụp X quang ngực có thể cho thấy tràn dịch bởi bóng tim to, có hình "bình nước". Điện tâm đồ thường có những thay đổi không đặc hiệu của sóng T và điện thể QRS thấp. Có thể có biến đổi điện. Siêu âm có thể là phương pháp hàng đầu để phát hiện tràn dịch màng tim. Ép tim có bệnh cảnh lâm sàng đặc trưng của đổ đầy thất không đầy đủ (ép tâm thất phải trong thì tâm trương hoặc ép tâm nhĩ phải). Siêu âm cho phép phân biệt nhanh chóng tràn dịch màng tim với suy tim ứ trệ. Cộng hưởng từ hạt nhân cũng cho thấy có tràn dịch màng ngoài tim và các tổn thương. Chọc màng ngoài tim và sinh thiết để chẩn đoán thường được chi định để xét nghiệm vi khuẩn và tế bào học. Sinh thiết màng ngoài tim có thể được thực hiện tương đối đơn giản qua một vết rạch nhỏ ở dưới mũi ức.

Điều trị

Tràn dịch ít có thế được theo dõi về lâm sàng và bằng siêu âm. Khi ép tim xảy ra, cần phải chọc dò màng ngoài tim cấp cứu. Lấy bớt một lượng nhỏ dịch thường tạo ta sự cải thiện huyết động tức thời, nhưng dẫn lưu hoàn toàn bằng một ống thông được ưa dùng nhất; có thể chỉ định dẫn lưu liên tục.

Bản chất của quá trình bệnh cơ sở quyết định việc điều trị hổ trợ. Tràn dịch tái phát trong bệnh ung thư và tăng ure máu nói riêng có thể phải cắt màng ngoài tim một phần.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh tăng huyết áp

Tăng huyết áp thoáng qua, do sự xúc động hoặc lo sợ gây ra, không nên chẩn đoán là bệnh tăng huyết áp, nhưng có thể chỉ ra một xu hướng tiến triển của nó.

Đánh giá ngất

Ghi lại các kết quả và theo dõi điện tâm đồ liên tục truyền qua điện thoại có thể giúp cho việc chẩn đoán ở những bệnh nhân có thoáng ngất từng cơn.

Nhịp nhanh nhĩ đa ổ (hỗn loạn) và nhịp bộ nối nhĩ thất

Bộ nối nhĩ nút hoặc nút bó His có thể đảm nhận hoạt động chủ nhịp của tim, thường ở tần số 40 đến 60 lần/phút. Nó có thể xảy ra ở bệnh nhân có viêm cơ tim, bệnh mạch vành và ngộ độc digitalis cũng như những người có tim bình thường.

Các triệu chứng và dấu hiệu bệnh tim

Việc nhận thấy nhịp đập của tim, có thể là hiện tượng bình thường, hoặc có thể phàn ánh tăng cung lượng tim, hoặc tăng cung lượng nhát bóp tim.

Thông liên thất

Trong tổn thương này, có một lỗ thông ở phần trên của vách liên thất do không hợp nhất được với thành động mạch chủ nên máu đi từ tâm thất trái có áp lực cao sang thất phải có áp lực thấp.

Các biến chứng của nhồi máu cơ tim

Hầu hết các bệnh nhân có đau thát ngực sau nhồi máu và tất cả những người trơ với điều trị thuốc thì nên được thông tim sớm và tái tưới máu bằng PTCA hoặc CABG.

Nhịp nhanh trên thất do đường dẫn truyền phụ nhĩ thất

Những bệnh nhân có khoảng RR dưới 220 ms là những người có mối nguy cơ cao nhất. Digoxin và verapamil, các chẹn beta với một mức độ ít hơn có thể làm giảm thời gian trơ của đường dẫn truyền phụ.

Block đường ra xoang nhĩ và hội chứng nút xoang bệnh lý

Blốc xoàng nhĩ thường không có triệu chứng, mặc dù ngừng dài tương đương với ngừng xoang hiếm khi xảy ra như là một phần của hội chứng nút xoang bệnh lý và được điều trị như được phác thảo dưới đây.

Nhồi máu cơ tim cấp

Kích thước và vị trí của ổ nhồi máu quyết định bệnh cảnh lâm sàng cấp, các biến chứng sớm và tiên lượng lâu dài. Các dấu hiệu huyết động có liên quan trực tiếp tới mức độ lan rộng của những lần nhồi máu trước.

Cơ chế rối loạn nhịp tim

Liệu tần số tim chậm có sinh ra triệu chứng lúc nghỉ hoặc khi gắng sức hay không là tùy thuộc vào tình trạng cơ sở của cơ tim và khả năng nó có thể tăng thể tích nhát bóp.

Cấp cứu tăng huyết áp

Ngày càng có nhiều các thuốc dùng trong điều trị cấp cứu tăng huyết áp, đã liệt kê các thuốc, liều lượng, và tác dụng phụ.

Thấp tim cấp và bệnh tim do thấp

Các tiêu chuẩn phụ gồm sốt, đau nhiều khớp, kéo dài khoảng PQ có thể trở về bình thường được, tốc độ lắng máu cao, các dấu hiệu của nhiễm liên cầu tan huyết beta trước đó, hoặc tiền sử có thấp tim.

Tăng áp động mạch phổi tiên phát

Một số tác giả ủng hộ dùng thuốc chống đông uống lâu dài. Hiệu quả của các thuốc dãn mạch còn đang được thảo luận một phần vì đáp ứng của chúng rất khác nhau.

Các xét nghiệm và thủ thuật chẩn đoán bệnh tim mạch

Các thủ thuật chẩn đoán không chảy máu đã ngày càng tăng về số lượng và ứng dụng trong chẩn đoán. Tuy nhiên chúng thường bị lạm dụng quá mức.

Lipid máu và các bất thường về lipid

Hai loại lipid chính trong máu là cholesterol và triglycerid, chúng được mang trong các phân tử lipoprotein, và các túi hình cầu cũng chứa cả các protein

Bệnh cơ tim phì đại

Triệu chững thường gặp nhất là khó thở vá đau ngực. Ngất cũng thường gặp và rất điển hình là sau gắng sức là lúc mà đổ đầy tâm trương giảm xuống trong khi sự tắc nghẽn đường ra lại tăng lên.

Đau thắt ngực

Đau thắt ngực thường do bệnh xơ vữa các động mạch vành gây ra. Co thắt động mạch vành cũng có thể xẩy ra ở vị trí tổn thương hoặc hiếm hơn, ở những động mạch hoàn toàn bình thường.

Block nhĩ thất

Những bệnh nhân bị blốc tim hoàn toàn từng cơn hoặc blốc dưới nút hoàn toàn mạn tính cần phải tạo nhịp vĩnh viễn, và tạo nhịp tạm thời được chỉ định nếu tạo nhịp cấy chưa được tiến hành ngay.

Bệnh tim do phổi

Triệu chứng nổi bật của chứng tâm phế mạn còn bù là triệu chứng liên quan tới bệnh phổi và gồm ho và gầy, dễ mệt và yếu. Khi bệnh phổi gây ra suy thất phải, các triệu chứng này tăng lên.

Bệnh mạch vành: bệnh xơ cứng động mạch vành, bệnh tim thiếu máu cục bộ

Các quá trinh này tiến triển chậm qua nhiều thập kỷ trong hầu hết các trường hợp. Trái lại, lịch sử tự nhiên của mảng xơ vữa chín khó có thể dự đoán được.

Bệnh cơ tim giãn

Thường không thể phát hiện được nguyên nhân, nhưng nghiện rượu lâu ngày và viêm cơ tim là những nguyên nhân thường gặp. Hơn nữa, nhiều người coi bệnh cơ tim giãn ngẫu phát thường là giai đoạn cuối của viêm cơ tim.

Hội chứng QT dài

Hội chủng QT dài mắc phải xảy ra thứ phát do sử dụng các thuốc chống loạn nhịp hoặc các thuốc chống trầm cảm, do rối loạn điện giải thiếu máu cơ tim hoặc nhịp chậm rõ rệt co thể gây ra tim nhanh thất.

Bệnh tim và thai nghén

Những thay đổi sinh lý do thai nghén gây ra có thể làm cho mất bù tim ở những bệnh nhân có bệnh tim mạch rõ rệt, nhưng những vấn đề nặng nề nhất gặp ở bệnh nhân bị hẹp van tim.

Phân ly nhĩ thất và rối loạn dẫn truyền trong thất

Tiên lượng của blốc trong thất nói chung là tùy thuộc vào bệnh tim cơ sở. Ngay cả trong blổc hai phân nhanh, tỷ lệ blôc tim hoàn toàn huyền bí hoặc tiến triển tới hình thái blốc này rất thấp và tạo nhịp thường là không xác đáng.

Lựa chọn và theo dõi các van tim giả

Việc nhận biết rối loạn chức năng van có thể rất khó khăn nhưng siêu âm Doppler đặc biệt là qua đường thực quản có thể phát hiện thấy hẹp trong hầu hết các trường hợp.